BACK TO TOP
Thánh Nhân cầu "Tâm" chẳng cầu "Phật" , Phàm Nhân cầu "Phật" chẳng cầu "Tâm"... Chẳng biết "Bổn Tâm", "Học Pháp" vô ích !
Home » , » Hành Nghi Của Bất Hưu Tức Bồ Tát

Hành Nghi Của Bất Hưu Tức Bồ Tát

Written By Bạch Dương Thâu Viên on Tuesday, November 1, 2016 | 11:52 AM


Bồ Tát nhân gian


 Hành Nghi của Bất Hưu Tức Bồ Tát
 Cả một đời từ bi hỷ xả của
   Tiền Nhân Đại Cô
   Người thành lập Phất Nhất Sùng Đức – Nữ sĩ “ Trần Hồng Trân ”, các đạo thân tôn xưng người là “ Trần Tiền Nhân ”, “ Trần Đại Cô ”. Tiền Nhân Trần Đại Cô của Nhất Quán Đạo, tên húy là Hồng Trân, tự là Oánh Như, đạo hiệu là Nguyên Trinh, người của thành phố Thiên Tân. Người sinh vào năm Dân Quốc thứ 12 ( Tây Nguyên 1923 )  , phụ thân của người là ông Phụng Minh lúc còn tại thế đã từng nhậm chức hội trưởng ( chủ tịch ) của câu lạc bộ thương mại Thiên Tân, thích hành thiện giúp người, sáng lập ra “ Hội Tuất Lê ”, mỗi tháng cứu tế hàng chục bá tánh cô độc nghèo khổ bệnh tật, mẹ Nhan thị phò trợ chồng nuôi dạy con cái, hiền lành khiêm cung cẩn thận. Tiền Nhân Đại Cô có 2 em trai 4 em gái, gia đình cực kì là an hòa vui vẻ mĩ mãn. Đại Cô lúc nhỏ tiếp nhận sự dạy bảo của phụ thân về “ hiếu liêm, nhân ái ”, thấy nghe nhiều rồi nên chịu ảnh hưởng sâu sắc, do đó mà đã bồi dưỡng tấm lòng từ mẫn trợ giúp người. Tiền Nhân Đại Cô thành đạo vào ngày 6 tháng 1 âm lịch Dân Quốc năm thứ 97 ( Tây Nguyên 2008 ), hưởng thọ 86 tuổi.

   Đại Cô Tiền Nhân tại Thiên Tân thân là vị thiên kim tiểu thơ cành vàng lá ngọc vào lúc 19 tuổi thời gian 3 năm sau khi cầu đạo đã nhìn thấu hồng trần, nhất tâm noi theo tinh thần đại từ đại bi của Quán Thế Âm Bồ Tát, cả đời phụng hiến cho đạo trường, làm việc chăm chỉ chẳng sợ vất vả khổ cực, cứu độ chúng sanh. Tiền Nhân Đại Cô dẫn dắt đạo trường Phát Nhất Sùng Đức tròn 60 năm, tiếp nhận đủ thứ sự mài luyện, mở ra sự huy hoàng sáng lạn của sinh mệnh, trải qua rất nhiều những gian nan khốn khổ, phổ thành rất nhiều những thánh tích vĩ đại khiến cho người ta cảm động sâu sắc mà ca tụng. Tiền Nhân Đại Cô cả đời noi theo Quán Thế Âm Bồ Tát, dùng tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, xả làm sự hàm dưỡng bên trong của sinh mệnh, lấy Bồ Tát vĩnh viễn chẳng nghỉ ngơi thị hiện nhân gian, Tiền Nhân Đại Cô cả đời vì hoằng dương đại đạo, vì độ hóa chúng sanh mà phụng hiến sinh mệnh. Tình yêu lớn mà Tiền Nhân Đại Cô dành ra được người trời cùng ca ngợi, được các giới kính mến khâm phục, cách làm và tinh thần tu bàn cả đời của người có thể làm tấm gương trong đạo để các hậu học chúng ta học tập noi theo.

   Đạo trường Sùng Đức có thể có nền tảng phong thịnh viên mãn hôm nay, ngoại trừ sự gia bị của Thiên Ân Sư Đức, sự phù hộ của Chư Thiên Thần Thánh, Chúng Tiên Bồ Tát, sự hộ trì của Đại Đức Bạch Thủy Thánh Đế ra, chính là vì có sự sinh ra và lãnh đạo của Tiền Nhân Đại Cô - một vị bồ tát sống mà mãi mãi chẳng nghỉ ngơi, đối với các hậu học của Sùng Đức mà nói thì giống như ơn tái tạo vậy, khó mà hồi báo.

   Tiền Nhân Đại Cô học tập và làm việc ngày đêm chẳng mỏi mệt, cả ngày bôn ba khắp nơi chẳng yên nghỉ, thuyết pháp độ chúng, khổ khẩu bà tâm thành toàn đạo thân ( khổ khẩu bà tâm : dùng thái độ thành khẩn chân thật nỗ lực khuyên bảo người khác ), tận dụng thời gian tối đa, tích cực độ hóa chúng sanh. Người lấy tâm thầy làm tâm của mình, lấy chí thầy làm chí của mình, niệm niệm đều là vì chúng sanh, đâu đâu cũng vì hậu học, vĩnh viễn chẳng từ gian khổ vất vả, vĩnh viễn chẳng sợ lao lực mỏi mệt. Người thường nhắc nhở các hậu học rằng : “ Lão Sư, Tiên Phật đối với chúng ta quá tốt rồi, Lão Tiền Nhân quá ư là từ bi, chúng ta không được quên ơn ! ”.  Đạo phạm hành nghi cả đời của Tiền Nhân Đại Cô có thể nói là chơn tâm chẳng hai, từ bi hỷ xả, chẳng oán trách, chẳng hối hận, chí thành chẳng ngơi, cúc cung tận tụy, tử nhi hậu kỉ ( dốc hết tâm sức chẳng từ gian khổ vất vả, mãi cho đến chết )

   Khi Tiền Nhân Đại Cô 25 tuổi, đúng lúc gặp Đạo Trưởng tuyển chọn nhân tài khai hoang Đài Loan, người bèn đến Đài Loan vào Dân Quốc năm thứ 36 ( năm 1947 ), nhưng do không thích ứng với sự biến hóa đổi dời của hoàn cảnh sống tạo thành mà trở về quê hương trị bệnh, nhưng vẫn không quên hoằng nguyện cứu thế. Năm kế, lại lần nữa theo Hàn Đạo Trưởng Bạch Thủy Thánh Đế đến Đài Loan khai hoang xiển đạo.

   Từ đấy 2 bờ ( Đại lục và Đài Loan ) đoạn tuyệt, từ đấy lấy đạo trường làm nhà, tự lập tự cường, trải qua tầng tầng lớp lớp khảo nghiệm, đột phá nghìn ma vạn khảo, khắc phục đủ mọi khó khăn, gian khổ vất vả sáng tạo sự nghiệp, lòng chí thành làm cảm động trời, tiên phật từ bi trợ sức vô hạn, lập cơ từ Sùng Tu Đường của Đẩu Lục, dần dần kiến lập nên 7 đạo trường lớn là Vân Lâm, Chương Hóa, Đài Bắc, Đài Trung, Miêu Lật, Cao Hùng, Đài Nam.

   Hồi tưởng lại Tiền Nhân Đại Cô đến Đài Loan lần thứ 2 vào Tây Nguyên năm 1948, phụ mẫu và em trai, em gái tiễn biệt ở Đại Cô Khẩu của Thiên Tân. Người quỳ biệt phụ mẫu lệ rơi ướt áo, mãi lâu chẳng nỡ rời khỏi, lòng nghĩ phụ mẫu tuổi tác đã cao, em trai em gái tuổi vẫn còn nhỏ, lần đi này chẳng biết năm nào tháng nào mới có thể đoàn tụ trở lại với phụ mẫu và người nhà. Phụ thân của người hai tay nắm chặt tay của Tiền Nhân Đại Cô nói rằng : “ con ơi ! Trần gia có thể sinh ra một đứa con tu đạo như con đây, đấy là phúc khí của Trần gia chúng ta, đến Đài Loan chịu khổ con nhất định phải nhẫn nại, nhất định phải tích cực tiến lên giành lấy niềm vinh dự cho tổ tiên của Trần gia".! 
   
   Người đến Đài Loan do ngôn ngữ chẳng thông, cách năm lại núi sông đổi sắc, hai bờ ( Trung Quốc và Đài Loan ) cách trở, hoàn toàn chẳng có tin tức của người thân, sự tiếp tế của Đại Lục đoạn tuyệt, kinh tế rơi vào cảnh khốn cùng, cuộc sống của mọi người vô cùng gian nan, vả lại quan khảo liên miên, cực kì bồn chồn lo sợ, ai cũng cảm giác mình đang ở trong hoàn cảnh nguy hiểm, thế nhưng Tiền Nhân Đại Cô ghi nhớ kĩ lời mà phụ thân đã nói lúc sắp chia tay, mang giữ niềm tin kiên định “ ở đâu cần thì đi đến đó ”, khắc tạc những dấu tích sâu sắc trên mảnh đất nghèo này, không do cuộc sống gian nan vất vả mà sờn lòng nản chí, theo Hàn Lão Tiền Nhân ( cũng chính là Bạch Thủy Thánh Đế mà nay đã thành đạo ) cùng làm mì sợi, màn thầu, bánh bao bán ra ngoài để duy trì cuộc sống.

   Từ nhỏ sống trong môi trường giàu sang, lần đầu tiên nếm đủ mọi thứ khổ, thế nhưng trong lòng Tiền Nhân Đại Cô vẫn cứ mãi ghi nhớ kĩ lời huấn thị của phụ thân rằng : “thiên hạ chẳng có hỏa diệm sơn nào mà không qua được ” khiến cho người khắc phục được mọi chướng ngại, trong hoàn cảnh khốn cùng vẫn chẳng quên lí tưởng và sứ mệnh, nhất tâm hướng đạo, nỗ lực hướng về trước, tuyệt đối chẳng thoái chuyển. Người thường nói rằng : “ Đời người chẳng có ngọn núi lửa nào mà xông chẳng qua ”. Tiền Nhân Đại Cô nhẫn nhục gánh vác lấy trách nhiệm trọng đại, chẳng sợ gian nan, càng bị dày vò càng dũng cảm, dùng tâm cảm ân vận dụng cả sự từ bi và trí tuệ để đột phá tầng tầng lớp lớp những khảo nghiệm và hoàn cảnh khốn khó, mỗi bước một dấu chân, theo sát thiên mệnh của Sư Tôn Sư Mẫu, trải qua rất nhiều nỗi huyết lệ bi thương đau khổ, cuối cùng cầu đắc thiên tâm, đạt được sự khẳng định của thiên thượng, nhân gian. Đại đạo tại Đài Loan đại khai phổ độ, và từ Đài Loan khai triển đến các nước trên thế giới, chẳng có nơi nào không đến được, người cầu đạo liên tục chẳng dứt, đạo vụ không ngừng tiến bộ phát triển; những đạo trường lớn phong thịnh viên mãn trong ngoài nước của Phát Nhất Sùng Đức hôm nay cũng là dựa vào từ tâm bi nguyện và sự thông minh nhìn xa trông rộng của người mà khai triển ra cách cục lớn và khí khái độ lượng lớn trước đây chưa hề thấy của đạo trường.

   Tiền Nhân Đại Cô gắng gượng nhẫn chịu nỗi đau nhớ người thân, từ Đẩu Lục bắt đầu gieo rắc khuếch tán những hạt giống của lòng yêu thương, đem lòng hiếu thảo đối với phụ mẫu chuyển thành đi vào phát dương tinh thần hiếu đạo, đã làm cảm động rất nhiều những thanh niên phóng đãng khiến họ cải tà quy chánh, gầy dựng lại vô số gia đình ấm áp. Tiền Nhân Đại Cô thời thời khắc khắc chẳng quên tâm tư hành hiếu đạo đối với phụ mẫu, noi theo tinh thần thành lập Tuất Lê Hội của phụ thân, tại Đài Loan trước sau thành lập 5 tổ chức tài trợ văn hóa giáo dục là Sùng Đức, Sùng Nhân, Sùng Lễ, Sùng Nghĩa, Quang Tuệ, để đề xướng tinh thần tiết hiếu, ban phát học bổng, khích lệ học sinh tiến đức tu nghiệp ( tăng tiến phẩm đức, tu tập sự nghiệp học tập ) , các tổ chức giáo dục đều đã từng nhiều lần được tuyển là đoàn thể có công giáo dục xã hội do bộ giáo dục truyền bá phổ biến thực hiện.

   Người lại trợ giúp cho Hàn Đạo Trưởng Bạch Thủy Thánh Đế sáng lập ra sự nghiệp từ thiện công ích như ngôi nhà nhân ái quang minh Phổ Lí và trại nuôi dạy trẻ em mồ côi Tín Nghĩa để tạo phúc cho quần chúng. Đặc biệt, học sinh sinh viên của các trường đại học công lập, tư lập, các học viện độc lập và các trường chuyên khoa nhận được cảm hứng từ tinh thần ấy của người nên những người tham gia vào các hạng liệt tu đạo bàn đạo có đến hàng nghìn hàng vạn, thành lập hơn trăm Hỏa Thực Đoàn ăn chay tại các trường học, tạo tựu nên rất nhiều nhân tài. Mạnh Tử nói rằng : “ Thiên hạ nịch viện chi dĩ đạo ” ( Tạm dịch : thiên hạ bị chìm đắm thì dùng đạo để cứu trợ ”, ý nghĩa rằng : thiên hạ đại loạn, bá tánh sống trong đau khổ thì phải dùng đại đạo nhân nghĩa để đi cứu họ; dùng tay chỉ có thể cứu một người rơi chìm xuống nước, dùng chính trị nhân đức có thể cứu bá tánh thiên hạ, nghìn nghìn vạn vạn người ).

   Người dùng tư tưởng của Nho gia để giáo hóa chỉ dẫn chúng sanh, quan tâm đến những đoàn thể yếu thế, dùng hành động thực tế để giúp đỡ họ đứng vực dậy. Do đó, bất luận là sự nghiệp và chí hướng cứu tế từ thiện, trợ giúp người khác, đem lại lợi ích cho công chúng, bảo vệ môi trường công ích, tình nguyện viên văn hóa đều tự nhiên thuận theo thiên mệnh hoặc thời thế mà sanh, tán thành trợ giúp người khác làm việc tốt, thiện dự nhân đồng ( mình có ưu điểm thì nguyện cho người khác cũng như mình vậy, người khác có điểm mạnh thì học tập người khác ), nhờ vào những nghĩa cử này mà rộng kết thiện duyên với xã hội.

   Tiền Nhân Đại Cô dẫn dắt Phát Nhất Sùng Đức khai sáng đạo vụ từ nông thôn phát triển đến đô thị, từ truyền thống hướng đến hiện đại hóa, càng từ hải nội truyền đến các nước hải ngoại; sự phát triển hưng thịnh nhanh chóng của đạo trường Sùng Đức gần hơn 30 năm, chất và lượng không ngừng tăng trưởng theo thời gian, có thể nói đều là do từ tâm bi nguyện và tầm nhìn rộng xa dài, hành vi đại dũng và quyết tâm lớn kiên định của Tiền Nhân Đại Cô.

   Tiền Nhân Đại Cô cho rằng các phần tử tri thức là những nhân tài ưu tú kiệt xuất nhất của thời đại, cũng là then chốt của sự hưng thịnh và suy yếu, liên quan đến sự xây dựng và phát triển của đất nước. Trong đạo trường để cho đạo vụ hoành triển càng phải có những nhân tài ưu tú, nếu có sự tham gia vào của các phần tử tri thức sẽ thúc tiến sự phát triển và truyền thừa vĩnh viễn kế tục. Tiền Nhân Đại Cô xác định rõ rằng đô thị là nơi hội tụ của những nhân tài kiệt xuất, nhân tài rất nhiều, để cho đạo vụ phát triển thì không thể chỉ lưu thủ ở xã hội nông thôn, cố thủ bám chặt ở cách thức bàn đạo truyền thống, mà nên dũng cảm khai sáng, tích cực dẫn độ các phần tử tri thức và những người có tài năng, phẩm đức và danh tiếng; do vậy, bắt đầu từ Tây Nguyên năm 1968, Tiền Nhân Đại Cô phát tâm khai hoang giới sinh viên học sinh của Đài Trung và Đài Bắc. Người hơn 50 năm nay cực lực đề xướng đạo hiếu, vả lại đích thân tuyên giảng đạo hiếu. Rất nhiều sinh viên học sinh của các trường đại học, học viện sau khi nghe xong đều bị làm cảm động sâu sắc, nối tiếp nhau không ngừng noi theo tinh thần hành thiện khuyến hiếu của người. Từ tâm bi nguyện của người đã làm cảm động Chư Thiên Tiên Phật, vạn tiên bồ tát giúp đỡ trợ đạo, tuy rằng quan khảo chẳng dứt, nhưng những học sinh cầu đạo từng đợt từng đợt nối tiếp nhau; những người phát tâm tu đạo bàn đạo càng là có mặt khắp nơi, giống như thiên binh thiên tướng hạ phàm để giúp cho Tiền Nhân Đại Cô hoằng dương đại đạo, khiến cho đạo vụ càng hưng thịnh, càng thành công. Chẳng bao lâu sau thì đạo vụ các nơi trưởng thành rõ ràng, trên tinh thần tu bàn ra sức theo đuổi tứ hảo “ học, tu, giảng, bàn ” ( tứ hảo : 4 cái tốt ). Một năm lại một năm, Tiền Nhân kéo động ra sức thực hiện “ xây dựng cuộc đời tu bàn quốc tế hóa ” trên lí niệm tu bàn, thực hiện “ nội đức – ôn lương cung kiệm nhường; ngoại đức – cung khoan tín mẫn huệ ” trên việc hàm dưỡng đức hạnh đạt thành ngũ phụ chi đức, đối với khôn đạo thì đặc biệt chú trọng “ Khôn phạm tứ đức ”, đối với càn đạo thì yêu cầu sự hàm dưỡng “ lí lẽ đúng đắn đầy đủ nhưng thái độ khẩu khí ôn hòa không nóng giận vội vàng, khi đắc lí thì khoan nhượng cho người khác, thật sự làm được tâm thành, khí hòa, sắc mặt ôn hòa, lời nói khéo léo lịch thiệp uyển chuyển ”. Đạo trường Sùng Đức cũng do vậy mà từ Vân Lâm, Chương Hóa mở rộng phát triển đến thành 7 đạo trường : Đài Bắc, Đài Trung, Miêu Lật, Cao Hùng, Đài Nam, từ đấy chẳng phân lão trung thanh thiếu, sĩ nông công thương, nhân tài rất nhiều, đã thiết lập nên viên đá nền vững chắc kiên cố to lớn lâu dài của Phát Nhất Sùng Đức.

   Tây Nguyên năm 1976, Tiền Nhân Đại Cô càng dưới sự trợ duyên của Tiên Phật đã mở ra thánh tích truyền đạo hoằng pháp ở hải ngoại, trạm đầu là khai hoang nhật bản, nhưng do sự khác biệt của ngôn ngữ và văn hóa nên việc độ hóa thành toàn chẳng dễ dàng, may là có hành vi dũng cảm lớn, nhân đức lớn của Tiền Nhân Đại Cô chẳng từ gian khổ vất vả, nhẫn nhục gánh vác trách nhiệm trọng đại, tình yêu lớn vô hạn đã làm cảm động các đạo thân nhật bản, thể hội nhận thức sâu sắc được Thiên mệnh khả úy và sự tôn quý của đạo, bắt đầu có thể phát tâm tu đạo bàn đạo, mới có đạo vụ nhật bản phát triển to lớn hưng thịnh ngày nay.

   Bắt đầu từ Tây Nguyên năm 1977, cơ duyên chín muồi, sáng lập riêng ra một trang đạo vụ cục diện mới, tiếp tục có các nơi như Philippine, singapore, malaysia, thái lan, hồng kông, Macao kế tiếp nhau khai hoang đặt nền móng phát triển đạo vụ, tiếp đến càng băng qua thái bình dương, đại đạo truyền đến Mỹ, canada, thậm chí các nước Âu Mỹ, nay đã truyền khắp mấy chục nước của Ngũ Đại Châu ( Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Đại Dương, Châu Mỹ )

   Tiền Nhân Đại Cô vô cùng xem trọng tinh thần trung nghĩa. Người nhận thấy rằng xã hội hiện đại hóa nhất định cần phải có đoàn đội hộ trì lớn mạnh, do vậy trên việc vận hành đạo vụ chọn dùng hình thức tiêu chuẩn của tập thể lãnh đạo, toàn thể ( đoàn thể, tập thể ) dẫn dắt phát động, thực thi cơ chế liên lạc Trung Nghĩa Tự Ban, phát dương tinh thần trung nghĩa của Quan Thánh Đế Quân, kêu gọi mọi người phải đồng tâm đoàn kết nhất trí, tề tâm hợp lực, kỳ vọng mọi người tập hợp trí tuệ của mọi người thành đại trí của đạo trường, tập hợp năng lực của mọi người thành đại năng của đạo trường, tập hợp đức của mọi người thành đại đức của đạo trường, trung tự ban một lòng công tâm thúc đẩy đạo vụ, cứu tế trợ giúp cho những người gặp nguy nan, bỏ ra công sức phụng hiến một cách vô vi ( không giả tạo, không có điều kiện ); nghĩa tự ban thành toàn đạo thân phải có tình có nghĩa mới có thể rộng kết thiện duyên.

   Người cũng thể hội nhận thức sâu sắc rằng đạo trường muốn ổn định vững chắc thì cần giới xã hội, giới sinh viên học sinh, giới thanh thiếu niên phát triển đồng bộ, thiếu một cũng không được, tam giới liên hệ nhất nguyên hóa, mọi người vô cùng mật thiết, kết hợp thành một thể không thể tách rời; mọi người đồng tâm đồng đức thì đạo trường mới có thể truyền thừa vĩnh viễn tiếp tục chẳng dứt, cũng mới có thể từ đạo trường bình an hướng đến tiêu chuẩn, lại đạt đến đạo trường mẫu mực. Tâm nguyện lớn nhất cả đời của Tiền Nhân Đại Cô chính là cứu độ chúng sanh mãi mãi chẳng ngưng nghỉ, hộ trì thiên mệnh của Sư Tôn Sư Mẫu mãi đến vĩnh viễn. Người lấy tâm thầy làm tâm của mình, lấy chí của thầy làm chí của mình, niệm niệm đều là vì chúng sanh, trên cầu đắc thiên tâm, dưới hợp với ý người, dùng “ thừa tiên khải hậu, tục vãng khai lai ” để tự khích lệ bản thân ( kế thừa những sự nghiệp, tư tưởng, học thuyết, chủ trương mà những bậc tiền bối đi trước đã để lại xuống, và mở ra con đường, sự nghiệp sau này cho những người đi sau ), niệm niệm chẳng quên việc rộng bồi dưỡng nhân tài của đạo trường, mong sáng lập ra tuệ mệnh truyền thừa to lớn lâu dài. Do vậy, Tiền Nhân Đại Cô mong đợi khích lệ mọi người phật quy lễ tiết phải nghiêm cẩn, phải làm được đến tam thanh tứ chánh, làm người tu đạo tiêu chuẩn, người người đều tiêu chuẩn thì đạo trường sẽ đạt tiêu chuẩn, thậm chí còn phải khích lệ bản thân như cái mà Hoạt Phật Sư Tôn đã nói : “ đạt tiêu chuẩn, chẳng chút nghỉ ngơi, tiếp tục ra sức nỗ lực, lập mục tiêu phương hướng nỗ lực truyền thừa vĩnh viễn liên tục. ”

   Từ miền quê đi đến đô thị lớn, từ nông thôn đi đến giới sinh viên học sinh, từ trong nước đi đến ngoài nước, đã thiết lập nên đạo vụ của đạo trường mang tính quốc tế. Hiện nay đạo vụ quốc tế hóa, xã hội đa nguyên hóa, phải có sự phục vụ và thành toàn mọi mặt, mọi khía cạnh góc độ, cần phải có càng nhiều nhân tài hơn; Tiền Nhân Đại Cô thường nói rằng : mọi người đều có tài năng của mình, mỗi người đều là thầy và tiên phật xoay chuyển đến, đều là thừa nguyện đến; do vậy nhất định phải khai thác nhân tài, bồi dưỡng giáo dục nhân tài, càng phải thiện dụng nhân tài, nhân tài của đạo trường càng nhiều càng tốt. Nếu có thể khiến cho mỗi người sử dụng tài năng của họ ở cương vị trách nhiệm mà họ chuyên môn thì đạo trường sẽ càng có sức thúc đẩy, càng có sức phát triển. Cho nên, Tiền Nhân Đại Cô quy hoạch ra cho chúng ta cơ chế của 10 tổ phân công hợp tác, khiến cho người người có việc làm, việc việc có người làm, người người đều có cơ hội hành công liễu nguyện, đồng thời để khiến cho nhân tài có thể đạt đến cảnh giới càng cao, đã tốt lại càng phải tốt hơn, dụng tâm quy hoạch, do ứng với nhu cầu hoằng đạo cho nên người nhân tài thí giáo đối với nhân tài của các giới xã hội, giới sinh viên học sinh, giới thanh thiếu niên ( nhân tài thí giáo : căn cứ vào trình độ nhận thức, năng lực học tập, tố chất tự bản thân của những người khác nhau mà lựa chọn phương pháp dạy và học thích hợp với đặc điểm của mỗi người, phát huy những điểm mạnh, hứng thú, lòng tin của mỗi người ), phổ biến thiết lập lớp tiến tu 5 năm, kỳ vọng mỗi vị đạo thân đều có thể thể hội nhận thức cái ân vĩ đại của thánh đạo, tăng cường làm giàu phong phú thêm đạo học, lập chí phát tâm học đạo tu đạo bàn đạo, nối tiếp chí thầy, kế thừa đức của thầy để phát huy ý nghĩa thật của sinh mệnh, sáng tạo ra giá trị cao nhất của đời người, khiến cho tình yêu lớn trải khắp thiên hạ, khiến cho đại đạo hoành dương truyền khắp các nơi trên thế giới.

   Người vì để khiến cho những người trẻ tuổi không bị ủy khúc chướng ngại làm thoái lùi cho nên bèn tích cực cùng với tiền bối của các tổ tuyến vì sự hợp pháp hóa của Nhất Quán Đạo mà nỗ lực, rốt cuộc vào Dân Quốc năm thứ 77 ( 1988 ) đã thành lập Tổng Hội Nhất Quán Đạo của Trung Hoa Dân Quốc, từ đấy về sau tích cực chỉ đạo đối với việc thành lập và vận hành chi hội các nơi và tỉnh phân hội của Đài Loan, tận tâm tận sức hướng dẫn trợ giúp các hậu học và giúp cho Trương Lão Tiền Nhân bồi thành, thúc đẩy hội vụ phát triển mang tính thế giới; và chẳng tiếc sự quan tâm, hiệp trợ đối với các tổ tuyến, nhận được sâu sắc sự kính ái kính trọng.

   Tiền Nhân Đại Cô đại từ đại bi, chẳng sợ gió sương, chẳng từ nỗi khổ của đường xá vất vả mệt mỏi khốn đốn và ngày đêm đảo lộn, mỗi năm bay đến các nơi hải ngoại, hoằng pháp lợi sanh, thuyết pháp độ chúng, những nơi mà người đã đến, tiên phật đều giúp đỡ hiển hóa trợ đạo, đạo vụ hoành triển; người nhìn xa trông rộng, vô tư vô Ngã ( chẳng có cái Tôi ), nhận thấy rằng đạo vụ ngoài nước muốn hoành triển nhất định cần phải lạc địa sinh căn, không thể dựa vào sức người và sức vật của Đài Loan mãi, do vậy người một lần lại một lần đề xướng nguyên tắc người bản quốc làm việc của người bản quốc, người bản địa làm việc bản địa, thâm ý của người là phải để cho các đạo trường ngoài nước có thể vận hành độc lập; người khai hoang chỉ là từ bên cạnh mà hiệp trợ chỉ đạo, như thế mới có thể tạo tựu các nhân tài của bản địa, đạo vụ cũng mới có thể thật sự hoành triển; giống như Tiền Nhân thường cảm ân nói rằng : “ tất cả mọi thành công đều là thiên mệnh lãnh đạo của sư tôn sư mẫu, chư thiên thần thánh, vạn tiên bồ tát giúp đỡ trợ đạo, Lão Tiền Nhân đại từ đại bi, lại dựa vào ý chí kiên định bền bỉ và chân thành của bản thân "

    Tiền Nhân Đại Cô dĩ thân thị đạo ( dĩ thân thị đạo : thể hiện đạo ra ngoài thân, đem đạo biểu hiện ra ngoài, đi đến đâu cũng khiến cho người ta cảm giác “ đạo ” ở đó. Bản thân mình làm tốt thì người ta nói rằng đạo tốt ), dĩ đức phục nhân, vì muốn kiến lập “ Di Lặc Gia Viên nhất đạo đồng phong ”, sáng lập ra quy mô, chế độ vừa to lớn vừa lâu dài của đạo trường, dốc hết tâm sức; người nhận thấy rằng nên lấy đạo trường bình an làm nền tảng, xây dựng phát triển thành đạo trường tiêu chuẩn, rồi tiến đến thành đạo trường mẫu mực. Người khích lệ các hậu học năm nào cũng đề ra tinh thần chỉ tiêu, quy mô nhỏ nhưng hoàn chỉnh đầy đủ, chỉ đạo phương châm tu bàn cho mọi người. Người cho rằng đạo trường muốn truyền thừa xuống vĩnh viến kế tục thì nhất định cần phải xã hội hóa đạo trường, sinh hoạt hóa việc tu đạo, hiện đại hóa việc bàn đạo, mọi người tề gia tu đạo bàn đạo, mọi người đều có thể chánh tri chánh kiến, học tu giảng bàn hành cái nào cũng đích thân mình ra sức thực hiện, khiến cho các nhân tài khỏe mạnh vững chắc, cuối cùng có thể bàn đại sự gánh vác trách nhiệm lớn, mong đợi khích lệ các hậu học đồng thời có đầy đủ tài, đức, trí, trở thành những người độc lập kiên cường, thành trụ cột vững chắc của đạo trường. Những hậu học của Sùng Đức nếu có thể noi theo tinh thần tu bàn của Tiền Nhân Đại Cô, hạ sẵn quyết tâm kiến lập Di Lặc Gia Viên nhất đạo đồng phong nhất định có thể sáng tạo ra thánh nghiệp bạch dương vĩnh hằng bất diệt, mới có thể đạo viện thiên hạ, cứu độ chúng sanh vĩnh viễn không ngưng nghỉ.

   Định cư tại Đài Loan gần 60 năm, Tiền Nhân sớm đã xem mình là người Đài Loan, lúc giảng đạo thường dẫn dụng tiếng lóng Đài Loan, lại còn lúc nào cũng nhắc nhở các đạo thân rằng “ muốn để lại gốc Đài Loan, nhân tài và tiền tài nhất định phải hồi báo đền đáp lại cho xã hội Đài Loan ”, do vậy 12 năm trước người đã lập xuống di chúc, đem nhà cửa và những tài sản liên quan thuộc về người toàn bộ đều quyên hết cho các tổ chức quỹ tài trợ.

   Tiền Nhân Đại Cô từ nhỏ vốn có lòng từ, nhận được sự giáo dưỡng của phụ thân người là Thừa Ân Đại Đế, cứu tế những người cô độc không nơi nương tựa, xót thương những người nghèo khổ, giúp đỡ những người gặp nguy nan, tận tâm tận lực, đến Đài Loan khai hoang, bất kể hoàn cảnh thuận nghịch, khảng khái trượng nghĩa, làm việc tích cực không thua kém người. Hơn 50 năm nay, bất luận bao nhiêu đau khổ và chướng ngại, người đều nhẫn nại dưới ý chí kiên cường, đột phá và tiếp nhận, vô cùng quan tâm chăm sóc đối với những khổ nạn của xã hội; tại đạo trường thì hoằng dương ngũ luân bát đức, cương thường luân lý của Nho gia, tuyên dương khắp nơi chuyên đề khuyên dạy đạo hiếu, khổ khẩu bà tâm 60 năm nay chưa từng gián đoạn, không biết là đã cảm hóa biết bao đứa con của người khác, tạo phúc cho biết bao gia đình.

   Gần 20 năm nay, Tiền Nhân Đại Cô tại Đài Loan từ bắc đến nam thành lập 5 tổ chức quỹ tài trợ văn hóa giáo dục như Sùng Đức, Sùng Nhân, Sùng Lễ, Sùng Nghĩa và Quang Tuệ; mỗi năm lãnh phát học bổng khích lệ tiết hiếu phấn đấu vươn lên, cổ vũ khích lệ những học sinh thuộc những gia đình nghèo khổ mà chỉ có bố hoặc mẹ tự mình nuôi con, khích lệ chí tiết hướng học vươn lên, tổ chức các lễ thành niên, động viên các thanh niên biết khôn lớn thành người rồi thì nên chịu trách nhiệm đối với lời nói hành động của bản thân.

   Gần 10 năm nay, người càng ra sức thúc đẩy mở rộng giáo dục các bậc phụ huynh cùng con cái đọc kinh, động viên mọi người học tập các bậc Thánh Nhân, tổ chức vài chục buổi giảng tọa về sự lành mạnh của thân tâm linh, đạo đức khuyên bảo vãn hóa nhân tâm để tịnh hóa tâm linh của người đời, thành lập rất nhiều đoàn đội tình nguyện viên Sùng Đức của rất nhiều các trường đại học công lập, tư lập, các học viện độc lập và các trường học chuyên khoa; thâm nhập các cộng đồng nhân gian, giúp đỡ các đoàn thể yếu thế, phụ đạo dài hạn cho việc học thêm sau những giờ học chính khóa của các học sinh tiểu học, trung học, khiến cho xã hội quốc gia càng có thể an định, càng hài hòa tốt lành. Ngoài ra, người còn thành lập tổ chức tài trợ quỹ từ thiện Phát Nhất Sùng Đức, thúc đẩy việc làm từ thiện xã hội truyền tiếp kế thừa tâm nguyện của Hàn Đạo Trưởng, tiếp tục làm ngôi nhà nhân ái quang minh và trại trẻ mồ côi Tín Nghĩa, làm tốt việc an dưỡng và dưỡng hộ những người lớn tuổi, nghĩa cử từ thiện thương xót nuôi dạy những trẻ em mồ côi để tận một phần sức với xã hội, tận một phần tâm khiến cho những người lớn tuổi được an dật, những người nhỏ tuổi được nơi nương tựa.

   Quan sát tổng hợp thì cả đời người của Tiền Nhân Đại Cô dùng tinh thần đại trí, đại nhân, đại dũng thực hiện đại hành của từ bi hỷ xả, giúp đỡ Sư Tôn Sư Mẫu Tiền Nhân xây dựng sáng lập ra đạo trường hưng thịnh to lớn viên mãn Phát Nhất Sùng Đức, cũng đã hoàn thành sứ mệnh phải đạt thành mà bản thân Tiền Nhân Đại Cô đã lập chí hạ phàm; nay sứ mệnh đã hoàn thành, công quả viên mãn hồi thiên giao chỉ; từ sự lâm phàm giáng thế không biết bắt đầu từ lúc nào cho đến nay thành đạo về trời chính thức trở về bổn vị của phật. Người chính là tấm gương sáng của bậc Đại Bồ Tát thị hiện nhân gian, được Lão Mẫu sắc phong quả vị là Bất Hưu Tức Bồ Tát ( nghĩa là Bồ Tát chẳng nghỉ ngơi ).

Đạo chứng Vô Cực
    Lễ tưởng nhớ cáo biệt Tiền Nhân Lão Trần Đại Cô thành đạo
   Tiền nhân dành cả một đời hy sinh phụng hiến cho đạo trường,  lập thân hành đạo, dương minh nơi hậu thế, cho nên phụ mẫu cũng đều triêm quang, phụ thân được ơn trên sắc phong làm Thừa Ân Đại Đế, mẫu thân được sắc phong là Huyền Linh Bồ Tát. Trung Hoa Dân Quốc năm 74 ( năm 1985 ), Tuế Thứ Ất Sửu ngày 24 tháng 4, phụ mẫu của Tiền Nhân Đại Cô trở lại nhân gian kết duyên với mọi người, đồng thời từ bi khích lệ Tiền Nhân rằng :


          
                   " Vì ơn trên mà không sợ khổ

                      Vì chúng sinh mà khổ phải nếm

                     Thân làm con cái nhà họ Trần

                     Thì không được sợ mưa gió sương

                     Mẹ hôm nay phẩm vị lớn vậy

                     Công của hiếu nữ khó ẩn tàng

                     Xả một con gái cho trời dụng

                     Hơn cả nghìn vàng cúng trời xanh

                     Hoằng pháp lợi sanh công đức lớn

                     Cửu huyền thất tổ đồng triêm ân "

0 comments :

Blog Archive

Powered by Blogger.