Làm
thế nào để tiêu oan giải nghiệt ?
I. Lời
nói đầu :
“
Sinh tử cốt như sơn, nhân quả phục tuần hoàn, dục tiêu oan nghiệt trái, hoàn tu
đức vi tiên ” . Đoạn thơ này là những lời khai thị từ bi mà Thầy đã phê phần
tiêu oan giải nghiệt bên trong “ một đường kim tuyến ”. Con người chúng ta từ hội
Dần giáng thế đến nay đã có hơn 6 vạn năm, chuyển biến không ngừng trong sinh tử
luân hồi. Đấy đều là chịu nhân quả tuần hoàn của thiện ác tương báo, cảm thán
người đời si mê quá sâu, bởi vì vọng tham vọng tranh, do đó mà tích lũy xuống
những oan nợ của lũy kiếp, cho nên chúng ta nên dựa vào việc tích đức để hoàn
trả, dùng công để bù đắp.
Nay
may mắn gặp lúc tam kỳ mạt kiếp, thiên đạo giáng thế đại khai phổ độ, chính là
thời cơ tốt nhất để hành công lập đức, nhất định chớ có bỏ lỡ qua kỳ duyên này,
càng nên hành động nhanh chóng, dũng cảm mà tiến về phía trước, chẳng sợ khó
khăn gian khổ, đặc biệt càng nên hiểu rằng duy chỉ có trả sạch oan nghiệt mới
có thể thoát khỏi biển khổ, hồi phục bổn nguyên.
Chúng
ta thường nghe nói rằng : “ họa và phước vốn chẳng có cửa, duy có con người tự
dẫn đến mà thôi ” hoặc “ trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu ”, đấy chính là
nói trồng nhân gì thì sẽ được quả gì.
Kinh
nhân quả ba đời cũng nói rằng : “ tất cả nam nữ già trẻ, phú quý bần tiện trên
thế gian, bất kể là hưởng phước bất tận hoặc chịu khổ vô cùng đều là sự báo của
nhân quả tiền kiếp ”. Chúng sanh đều phải tiếp nhận những di sản vô hình của kiếp
quá khứ đã lưu truyền xuống. Mỗi người đều là người kế thừa của nghiệp mà tự
mình đã tạo, chính là vì có nhân tố của nhân quả báo ứng, cho nên đã sản sanh sự
khác biệt của phú quý bần tiện. Đủ thứ việc tự mình làm vẫn phải tự mình chịu.
Chớ bảo nhân quả không ai thấy, xa nơi con cháu gần tại thân.
II.
Cái gì gọi là oan nợ nghiệt báo ?
Chúng
ta đối với định lý của nhân quả, nếu như có thể hiểu được thì đối với tất cả
nghiệp báo hiện thời hoặc vị lai sẽ chẳng nảy sinh sự sợ hãi. Cho nên, tu đạo
nên biết tầm quan trọng của việc tiêu trả oan nợ.
1.
Cái gì là oan nợ và chủng loại của nó ?
Oan
: phàm chưa thông qua sự đồng ý của đối phương mà trục lợi từ họ , như tham ăn
miếng ngon mà tùy ý sát hại sinh mệnh ( nợ mạng ) hoặc âm mưu ám kế làm tổn người
lợi mình, khiến cho người ta chịu những oan khuất không dễ biện bạch ( oan nợ )
Nợ :
Tuy rằng thông qua sự đồng ý của đối phương, mượn dùng tài vật của họ mà sau đó
quên mất hoặc cố ý hoặc thiếu mà chưa trả ( nợ tiền ). Khiến cho người thân cốt
nhục của người khác chia lìa hoặc bất hòa, phá hoại nhân duyên của người ta, hủy
hoại danh tiết , sự tín dụng, danh dự của người khác, đặt điều thị phi chia rẽ
tình cảm khiến cho người ta nghi kị lẫn nhau, trục lợi từ người ta, đoạt lấy
tình yêu của người khác, cản trở người khác làm việc thiện, dẫn dụ người khác
làm điều ác ( món nghiệt nợ )
Chúng
sanh vì mê hoặc mà chẳng rõ đạo lý, chẳng tin nhân quả báo ứng mới có những
hành vi không hợp lý, mà các loại lời nói hành động không hợp lý đã tạo gọi là
tạo ác nghiệp, tự nhiên phải tự mình đi gánh vác, đi chịu quả báo của khổ,
trong hoàn cảnh chịu khổ báo lại tạo nghiệp mới. Từ mê hoặc → nghiệp → khổ → mê
hoặc. Như thế này tuần hoàn chẳng ngừng. Do bất mãn với hoàn cảnh hiện thực,
cho nên trong nghịch cảnh lại lần nữa tạo ác nghiệp, cũng có cái trong thuận cảnh
tạo ác nghiệp. Như các nhà doanh nghiệp trong giao thiệp giao tế, ngoài việc ăn
uống còn chơi gái, những người làm quan tham ô nhận hối lộ, dùng quyền thế áp
chế người, đấy đều là tạo nghiệp.
Người
của các ngành các nghề, trong sinh hoạt mỗi ngày khó tránh khỏi sẽ có làm những
việc thiện việc ác. Có những hành vi thiện ác chính là đang tạo nhân tạo nghiệp.
Bởi vì tạo nhân tạo nghiệp tương lai nhất định có quả báo, đấy gọi là định luật
của nhân quả, cho nên tục ngữ rằng : “ thiện có thiện báo, ác có ác báo, chẳng
phải không báo, chỉ là thời gian chưa đến ”
2.
Chủng loại của nghiệp báo có nghiệp cá biệt và cộng nghiệp
Về
pháp luật, các nước trên thế giới đối với hành vi phạm tội có đặc điểm chung
chính là phạm tội có sự phân biệt chủ phạm, tòng phạm. Hành vi chung của chủ phạm
và tòng phạm gọi là cộng phạm, đơn độc phạm tội gọi là độc phạm. Trên mặt pháp
luật gọi là độc phạm, trên phật học gọi là độc nghiệp, nghiệp cá nhân hoặc nghiệp
cá biệt, người cùng phạm thì gọi là cộng nghiệp.
Cộng
nghiệp là hành vi phạm tội chung do mưu kế của một người lại do nhiều người
tham dự và hành động, hoặc là do mưu kế của nhiều người lại xúi giục một người
nào đó đi làm chuyện phạm pháp. Nếu đã là phạm tội chung thì cũng phải chịu
chung quả báo vị lai.
Câu
chuyện : giữa năm dân quốc 71, 72, trên xa lộ tỉnh giai đông, huyện Bình Đông
thuộc Nam Đài Loan, có một chiếc xe du lịch chở 32 người ( bao gồm tài xế, nhân
viên phục vụ bán vé ) xuất phát từ Đài Đông chạy đến Cao Hùng, lúc ngang qua
Giai Đông đã va đụng với một chiếc xe 3 bánh có chở dầu xăng, lúc bấy giờ cả
hai chiếc xe đều bị thiêu hủy, trong đó bao hàm tài xế của xe 3 bánh tổng cộng
32 người bị lửa thiêu chết, chỉ có một người may mắn chỉ bị thương. Vị tài xế của
xe 3 bánh ấy là nhân viên của một công ty xăng dầu nọ, từ Phương Liêu mua dầu về
Giai Đông để bán, ngang qua chỗ này, không biết vì sự cố gì mà đụng xe du lịch,
phát sanh sự việc bất hạnh này.
Vài
ngày sau ở Giai Đông có Miếu Quan Thánh Đế Quân truyền ra một nguyên do của sự
cố bất hạnh này. Thì ra 200 năm về trước, ở vùng Quảng Đông có một nhóm cướp kiếm
sống bằng nghề cướp bóc nhà cửa người ta. Tại mảnh đất đó có một vị Phú Hào,
trong nhà có gia đinh thích uống rượu đánh bạc. Một ngày nọ tên gia đinh ra
ngoài đánh bạc uống rượu đến khuya mới trở về, ngày hôm sau thì bị chủ nhân
trách mắng, do vậy mà mang mối hận trong lòng, vả lại do thiếu tiền đánh bạc,
cho nên bèn tìm bọn cướp nọ, lên kế hoạch cưỡng đoạt cướp bóc tài vật của chủ
nhà hắn.
Nhóm
cướp này vốn dĩ lên kế hoạch chỉ cướp tài vật chứ không giết người, nhưng lúc
cướp bóc tài vật, do chủ nhân phản kháng, cho nên cả nhà lớn bé đều bị sát hại,
trong đó có một tên cướp tương đối có lương tâm, hét to bảo không được giết người,
chúng ta lên kế hoạch chỉ cướp tiền tài chứ không giết người.
Hai
trăm năm sau, cơ duyên quả báo đã chín muồi. Vị chủ nhân này chuyển sanh làm
ông chủ của công ty dầu xăng ở Giai Đông. Tên gia đinh nọ chuyển sanh làm tài xế
của chiếc xe ba bánh. Tên đầu xỏ và tên lãnh đạo đứng thứ hai đầu thai làm tài
xế và nhân viên bán vé. Ba mươi người còn lại chính là những du khách trong xe,
mà trong đó người bị thương chưa chết chính là tên cướp lúc bấy giờ đã hô không
được giết người.
Trước
kia do tên gia đinh độc ác dẫn bọn cướp đến cướp tài vật giết chủ nhân, giờ đây
đến lượt hắn chở xăng dầu của ông chủ đi thiêu chết cái nhóm trước kia làm nghề
cướp bóc. Trước kia là tên cướp đầu sỏ dẫn dắt bọn thủ hạ đi cướp của giết người,
bây giờ đầu thai làm tài xế chở những thủ hạ trước kia ( bây giờ là du khách )
đi hứng kiếp, có thể thấy rằng sức mạnh của nghiệp báo quả thật là chẳng thể
nghĩ bàn.
3.
Vì sao phải tiêu oan giải nghiệt ?
Kinh
Phật rằng : “ Tuy trải nghìn trăm kiếp , nghiệp đã tạo chẳng vong, nhân duyên hội
ngộ thời, quả báo trả tự chịu ”
Sự
báo của thiện ác như bóng theo hình. Tuy nhiên trải qua sự luân hồi của nghìn
kiếp trăm kiếp, chỉ cần nhân duyên đó chín muồi tất sẽ chịu quả báo. Con người
ai cũng có tánh, vật con nào cũng có linh, phàm là những người chịu oan nợ, sao
có cái lý chẳng đòi.
Kinh
Phật rằng : “ Muốn biết nhân đời trước, hãy xem quả đời này, muốn biết quả vị
lai, hãy xem nhân hiện tại. ”
Những
người, việc, vật mà mỗi một người đối mặt đều là quả của nhân duyên thiện ác đời
quá khứ dẫn đến.
* Bồ
Tát sợ nhân, phàm phu sợ quả
Bồ
Tát hiểu rõ sở dĩ có tất cả những khổ báo của hôm nay, tất nhiên nhất định có
nguyên do trước đây của nó, cho nên trong cảnh khổ chẳng dám lại tạo thêm cái
nhân mới. Còn phàm phu sợ quả. Phàm phu ở trong cảnh khổ sẽ sản sanh tâm thái bất
mãn chẳng phục, oán trời trách người, cho nên trong cảnh khổ lại tạo thêm cái
nhân mới. Người thế gian chính là thường trồng nhân lại oán quả.
Có
câu nói rằng “ người không biết thì vô tội ”. Một người sở dĩ phạm tội là do sự
hồ đồ nhất thời, hoặc bị quyền thế bức bách, hoặc là chẳng rõ sự lý mà bị lợi dụng.
Như vậy anh ta đã phạm sai lầm trong tình trạng không biết thì phải chăng là chẳng
có tội ? Về mặt pháp luật là không cho phép, chỉ có thể xem tình hình mà giảm
nhẹ hình phạt mà thôi. Còn về mặt nhân duyên quả báo thì càng là không cho phép
phạm sai lầm rồi mà muốn thoái thác trách nhiệm.
Trên
kinh phật có đoạn ghi chép rằng : Phật Đà lúc tại thế, có đệ tử hỏi ngài rằng :
“ người không biết sau khi làm rồi phải chăng chẳng có tội ? ”. Ngài đáp rằng :
“ có một chiếc kìm nung đốt đỏ rực, là người biết rồi cầm bỏng nghiêm trọng hay
là người không biết cầm lấy bị bỏng nghiêm trọng ?
Phật
Đà lại nói rằng : “ nghiệp nhân tạo tác của chúng sanh trong lục đạo đều là do
chẳng rõ lý mà tạo thành, sao có thể bảo rằng người không biết thì chẳng có tội
? ”
Phàm
phu thường bị mê hoặc mới sinh ra đủ thứ điên đảo mà tạo mọi ác nghiệp, nhưng Bồ
Tát chứng ngộ biết rằng mọi thứ là nhân duyên hòa hợp, có nhân thì có quả. Bồ
Tát chẳng những không bị mê hoặc, thậm chí còn có thể tu trì giải thoát sanh tử.
Cho nên chúng ta làm bất cứ việc gì cũng phải thận trọng, miễn được những việc
sau này do không biết mà phạm sai lầm.
Tuy
biết quan hệ của nhân quả, cũng nên hiểu cái lý “ thiện báo chẳng phải là thiện,
ác báo chẳng phải là ác ”
Ví dụ
như đại phú đại quý là thiện báo, nhưng đại phú đại quý rất dễ khiến người ta đọa
lạc tạo nghiệp, như giàu mà bất nhân hoặc kiêu ngạo khi dễ người, những cái này
đều là tạo ra cái nhân khổ của đời vị lai, cho nên nói rằng thiện báo chẳng phải
là thiện. Trái lại trong hoàn cảnh rất ác liệt là ác quả, nhưng trong hoàn cảnh
ác liệt có thể hiểu có nguyên nhân kết quả của nó mà tăng cường tu hành làm việc
thiện, đối với tiền đồ của tương lai sẽ là khá tốt, cho nên nói ác báo chẳng phải
ác.
Nay
tam kì mạt kiếp chính là lúc đại thanh toán của các oan khiếm, Sư Tôn có nói rằng
: “ đại đạo tu lại có khó dễ, vừa biết do mình vừa do trời, nếu chẳng tích công
tu âm đức, động có quần ma tạo chướng duyên ”, lại nói rằng : “ nếu muốn chấm dứt
nợ tiền kiếp, dựa vào công đức có thể tiêu trừ ”. Mỗi người đều hy vọng cuộc đời
của mình có thể thành công suôn sẻ, thường gặp quý nhân, vậy thì phải tiêu trừ
oan khiếm, hóa giải những vật chướng ngại trên đường đời, con đường đời tự
nhiên rộng rãi vô hạn.
4.
Phương pháp tiêu oan giải nghiệt :
Phải
biết trên đời chẳng có nhân thì không thành quả. Hiểu rõ nhân quả thì phải bỏ
nhân ác, tạo nhân thiện, và cần phải hành thiện tích đức để hoàn trả. Những
nghiệp chướng của chúng sanh chỉ có bản thân hành công lập đức để hóa giải, người
khác chẳng cách nào gánh đỡ thay cho. Con cái chẳng cách nào gánh thay cho bố mẹ,
bố mẹ cũng chẳng cách nào gánh thay cho con cái. Thậm chí Tiên Phật đều chẳng
cách nào diệt định nghiệp, cho nên Quan Thánh Đế Quân rằng : “ Quan mẫu tuy rằng
pháp lực lớn, nhưng chỉ có thể phục ma chẳng phục oan ”. Vậy thì làm thế nào mới
có thể hóa giải tiêu trừ oan nợ ? Một vài điểm dưới đây có thể dùng để tham khảo.
A.
Phương châm tu trì thường ngày :
1. Xử
sự dựa theo chánh lý mà hành : nói đơn giản thì là “ làm tất cả các việc thiện,
không làm các việc ác ”, không tạo thị phi nữa, chẳng phân biệt so đo tính toán
bạn và tôi, trừ bỏ ngã chấp, ngã kiến, đối nhân xử thế phải tồn một chữ “ kính
”, tôn trọng người khác thì đối phương mới tôn trọng mình. Bởi vì con người thường
trong cái bất tri bất giác mà đắc tội với người khác. Bởi vì mỗi người thiếu thốn
năng lực tự khắc chế bản thân, càng thiếu cái tâm thông cảm tha thứ cho người
khác, do vậy bình thường cư xử với người khó tránh khỏi sản sinh ma sát tạo
nhân ác. Thầy rằng : “ phụng khuyến người đời chớ có tự cho rằng mình thông
minh, làm chuyện mờ ám, hành động sai trái tùy ý không nói lý lẽ, phải biết rằng
ngẩng đầu ba thước có thần minh ”.
Sự
tiếp xúc qua lại giữa người với người vẫn cứ hay là dựa vào quan hệ thân sơ, xa
gần mà phân biệt đối đãi. Tất cả những cái này đều là những trò quỷ quái của “
ngã chấp ”. Nếu có thể dẹp bỏ những ngã chấp ngã kiến, không phân biệt bạn và
tôi, chẳng so đo tính toán thân sơ xa gần, thử dùng thái độ phản chiếu để tư
duy, tự nhiên có thể chuyển niệm, khuây khỏa an tâm mà mọi thứ viên dung.
2.
Phải bỏ thói hư tật xấu và tánh nóng nảy : Con người bởi vì trải qua sự luân hồi
đời đời kiếp kiếp, khó tránh khỏi việc dẫn đến rất nhiều những thói xấu, chẳng
cách nào trừ bỏ sửa đổi triệt để, thậm chí biên tạo rất nhiều lý do để bảo toàn
thân phận và sĩ diện của bản thân, nếu như thế tức sẽ chặt cỏ mà không trừ gốc,
gió xuân thổi lại mọc.
3.
Phải chấp nhận chịu thiệt thòi là tiêu nghiệp liễu tội : thường bảo rằng tha thứ
cho người khác là một loại đức hạnh đẹp, có thể nếm khổ liễu khổ, chẳng oán trời
trách người, trong thuận cảnh thì dễ bàn đạo, còn nghịch cảnh thì là hoàn cảnh
tốt để tu đạo.
Phật
pháp bảo với chúng ta rằng tất cả mọi chúng sanh đều là những người thân quyến
thuộc của chúng ta đời quá khứ, đều có phật tánh, đều sẽ trở thành phật. Có cái
gọi là “ chưa thành phật đạo, trước hết hãy kết nhân duyên ”. Chúng ta nên học
tập từ tâm quảng đại của bồ tát, không so đo tính toán những sai lầm trong quá
khứ của đối phương, không ghét kẻ ác, dùng tâm lượng của oan thân bình đẳng để
hóa giải ác duyên, quảng kết thiện duyên.
Đối
với những người đã từng khinh miệt chúng ta, làm hại chúng ta, chúng ta không
những không ghi thù, lại còn phải dùng tâm lượng bình đẳng khoan dung, dùng tâm
từ bi để đối đãi chúng sanh, mới có thể cải thiện đời người, sáng tạo nhân
duyên an lạc đời vị lai. Hãy thử suy nghĩ vấn đề từ góc độ của đối phương, dùng
tâm thông cảm và tâm bao dung, tìm cách giải quyết những luận điểm, ý kiến khác
nhau và sự ghét hận của hai bên, cũng có nghĩa là chuyển hóa cục thế ăn miếng
trả miếng mà hai bên đều thua thành cục diện anh thoái tôi nhường, hợp tác với
nhau hai bên cùng thắng lợi.
4. Quay
đầu lại kiểm tra những lỗi lầm sai trái của mình, quảng kết thiện duyên :
Tục
ngữ rằng : “ trên đời chẳng có người bạn vĩnh viễn, cũng chẳng có kẻ địch viễn
viễn ”. Có cái gọi là “ yêu chính là hận, thân chính là oan ”, hận từ yêu mà đến,
oan từ thân mà đến, những người chẳng có quan hệ bạn bè thân thích với mình rất
khó trở thành oan gia của mình. Cho nên địch và bạn, thân và oan chẳng phải là
tuyệt đối. Chúng ta nên nghĩ cách điều hòa oan thân, hóa địch thành bạn, tiêu
ác duyên kết thiện duyên.
“
oan gia nghi giải bất nghi kết ” ( hai bên có oan thù nên nghĩ cách tiêu giải,
chẳng nên tiếp tục kết oán ”, làm thế nào để giải kết ? việc do ai gây ra thì
phải do chính người đó giải quyết. Lúc đối mặt với oán tăng hội khổ, trước hết
phải phản tỉnh kiểm thảo, hổ thẹn sám hối. Quá khứ nhất định đã từng phạm qua
sai lầm, có lẽ là một động tác, một câu nói, một ánh mắt, một tâm niệm, giữa có
ý và vô ý khiến cho đối phương bị tổn thương. Trong sinh hoạt hằng ngày, thường
hành phản tỉnh kiểm thảo thì sẽ không dễ kết oán hoặc dựng nên kẻ địch, trên đường
đời tự nhiên có thể suôn sẻ, thường gặp quý nhân. Người tu đạo muốn thành tựu đạo
nghiệp càng nên phải quảng kết thiện duyên.
Kế đến,
nhất định cần phải hổ thẹn, sám hối những ân oán mà vô số kiếp đến nay đã kết,
như hôm nay quả của ác nghiệp đã chín muồi, do vậy nên cam tâm cam chịu, đều chẳng
có khiếu nại oan. Muốn giải oan tiêu nợ, chỉ cần tâm tồn sự cảm ân, thường quay
ngược lại đòi hỏi bản thân mình, bất kể là thực hiện hành động hoặc khởi tâm niệm,
đối phương nhất định có thể cảm nhận được thiện ý và thành ý này.
Kẻ địch
lớn nhất trong cuộc đời chúng ta chính là bản thân mình. Chính là cái tâm ngạo
mạn, cái tâm đố kị phân biệt so đo này của mình đã dựng nên kẻ địch bên ngoài của
mình. Chỉ cần dẹp yên sự chấp trước, đố kị, phân biệt, so đo tính toán của tâm
mình thì kẻ địch có thể chẳng cần tấn công mà tự diệt. Lúc nào cũng phản tỉnh
kiểm thảo, hổ thẹn sám hối, thường mang tâm từ bi, cảm ân, bình đẳng, tất có thể
thường được quý nhân tương trợ, những nơi mà mình đến tự nhiên sẽ tràn đầy sự
quang minh, cát tường ôn hòa. Vậy thì kẻ địch của việc thành đạo chứng quả chẳng
phải là cảnh giới ngũ uẩn lục trần bên ngoài, mà là những vọng tưởng và phiền
não vô minh của bên trong bản thân mình. Do vậy, hóa kẻ địch thành bạn chính là
đại biểu cho chuyển phiền não thành bồ đề, chuyển bát thức thành tứ trí, chuyển
hóa kẻ địch mà mình đã kết oán kết ác duyên thành những người bạn tốt thích tu
thiện.
5.
Phải thật tâm sám hối : Thật sự thật tâm sám hối mới có thể tiêu trừ oan nợ.
Lục
Tổ trong bài vô tướng tụng bảo rằng :
Mê
nhơn tu phước bất tu đạo,
Chỉ
ngôn tu phước tiện thị đạo,
Bố
thí cúng dường phước vô biên,
Tâm
trung tam ác nguyên lai tạo,
Nghĩ
tương tu phước dục diệt tội,
Hậu
thế đắc phước tội hườn tại.
Ðản
hướng tâm trung trừ tội duyên;
Các
tự tánh trung chơn sám hối.
Hốt
ngộ đại thừa chơn sám hối,
Trừ
tà hành chánh tức vô tội.
Dịch
nghĩa :
Kẻ
mê tu phước chẳng tu đạo,
Chỉ
cho tu phước tức là đạo.
Bố
thí cúng dường phước vô biên,
Trong
tâm tam ác vẫn còn tạo.
Muốn
dùng tu phước để diệt tội,
Kiếp sau được phước tội vẫn còn.
Nhân
duyên tội ác trừ nơi tâm,
Hướng
vào tự tánh chơn sám hối.
Hoát
ngộ đại thừa chơn sám hối,
Tà dứt
hạnh chánh tức vô tội.
Lại
nói rằng : “ Sám là sám trừ tội trước, từ trước tất cả các tội ác nghiệp ngu
mê, kiêu căng, dối trá, ganh tỵ thảy đều sám hết, chẳng bao giờ khởi nữa gọi là
sám. Hối là hối cải lỗi sau, tất cả ác nghiệp ngu mê, kiêu căng, dối trá, ganh
tỵ... nay đã giác ngộ, đều cho đoạn dứt, chẳng bao giờ tạo nữa gọi là hối. Phàm
phu ngu mê, chỉ biết sám trừ tội trước, chẳng biết hối cải lỗi sau, vì chẳng hối
cải, nên tội trước chẳng diệt, tội sau lại sanh, tội trước đã chẳng diệt, tội
sau lại tiếp tục, như thế làm sao gọi là sám hối được! ”
Chúng
ta phải lúc nào cũng kiểm thảo xem xem bản thân mình bình thường có người mà
mình oán hận, người mà mình ghét hay không ? nếu vẫn còn ý niệm này, chủng tử vẫn
còn thì khó mà vào đạo.
Do vậy,
phát một cái tâm sám hối, tâm hổ thẹn, đem cái tâm oán hận chuyển thành cái tâm
biết ân, cảm ân. Người xưa nói rằng : “Kẻ nói ra điều xấu của ta là thầy ta. Kẻ
nói ra điều tốt của ta là kẻ hại ta ”, ý nghĩa rằng người ta nói ta không tốt
là đang quan tâm ta, hy vọng ta thành tựu, ta trách sai người ta, thậm chí ghi
thù, ghi hận, đấy đều là cái sai của bản thân, phải nhanh chóng sửa lỗi. Có tư
duy như vậy, một đoạn ác duyên chẳng phải đã hóa giải rồi sao ?
Ngoài
ra, nên khấu đầu nhiều vào, tụng niệm Di Lặc Chân Kinh hồi hướng, có cơ hội thì
tham gia lớp sám hối.
6.
Lượng sức mà làm hành công liễu nguyện : độ người, bàn đạo, thanh khẩu trường
chay, thiết lập phật đường, khai hoang, chỉ cần thật tâm đi hành công liễu nguyện.
Lại hành tam thí, tích công lũy đức như vậy thì tự nhiên thầy sẽ xoay chuyển
cho chúng ta.
Liên
quan đến tam thí song hành, Hoạt Phật Ân Sư từng nói : tài thí giống như nước
trong giếng, một bên múc nước một bên sinh, ba ngày năm ngày chẳng múc nước, có
bao giờ nước ngập đến bờ thành đâu.
Pháp
thí : độ một người cầu đạo mà thành toàn họ có thể phát tâm thành tâm học đạo,
tu đạo thì cửu huyền thất tổ của họ đều sẽ vĩnh viễn cảm kích bạn, bởi vì như vậy
thì cửu huyền thất tổ của người đó mới có cơ hội thoát rời nỗi khổ của địa ngục.
7.
Giữ gìn giới luật : Thầy rằng không sát sanh gọi là nhân, nghĩa là không xâm phạm
sinh mệnh của người khác. Không trộm cắp gọi là nghĩa, nghĩa là không xâm phạm
tài vật của người khác. Không tà dâm gọi là lễ, nghĩa là không xâm phạm thân thể
của người khác, không vọng ngữ gọi là tín, nghĩa là không xâm phạm danh dự của
người khác. Không rượu thịt gọi là trí, nghĩa là không xâm phạm linh trí của người
khác.
Con
người sở dĩ tạo ác nhân kết ác duyên thường là do lỗi của 3 nghiệp thân khẩu ý
mà xúc phạm chọc giận người khác. Chỉ cần đoan chánh 3 nghiệp thân, khẩu, ý thì
có thể chuyển hóa ác duyên, quảng kết thiện duyên, cũng có nghĩa là phải giữ gìn
giới luật, quét bỏ thập ác ( sát sanh, trộm cướp, tà dâm, lưỡng thiệt, kì ngữ,
ác khẩu, vọng ngữ, tham, sân, si ). Trừ bỏ bát tà ( tà kiến, tà tư, tà ngữ, tà
nghiệp, tà mệnh, tà niệm, tà định, tà phương tiện ) .
8.
Phải từ bi hỷ xả, nguồn của vô lượng công đức là ở tâm vô vi :
Câu
chuyện : Kinh phật ghi chép có vua Lưu Li lãnh binh tấn công dòng tộc Thích Ca.
Ba lần trước đều là Phật Đà ngăn cản khuyên rút lui, đợi đến lần thứ tư lại
lãnh binh đến, Phật Đà biết rằng đã chẳng còn cách cứu vãn được nữa. Khi vua
Lưu Li lãnh binh tấn công dòng tộc Thích Ca bao vây thành Ca Tì La Vệ, đã giết
chết rất nhiều người. Mục Kiền Liên Tôn giả là một trong 10 đệ tử lớn của Phật
Đà vì muốn cứu những người bị vậy khốn trong thành, dùng sức thần thông thu 500
người trong thành vào cái bát, nhưng ra đến bên ngoài thành, những người đó
hoàn toàn hóa thành máu. Lúc bấy giờ có đệ tử hỏi Phật Đà vì sao lại như thế
này, Phật Đà rằng : “ thần thông cũng thắng không nổi nghiệp lực ”, và nói rõ
nguyên do :
Vào
một vạn 5000 năm về trước, có một thôn đánh cá nọ, một hôm những người dân
trong thôn vì bắt cá mà hút cạn một hồ nước trong thôn để bắt. Lúc bấy giờ, có
một đứa bé nhìn thấy một con cá nhảy trên bờ, đã dùng một cái gậy đánh con cá 3
lần rồi rời khỏi chứ không tham gia bắt cá. Sự việc trải qua một vạn năm nghìn
năm, tất cả những người dân trong thôn đánh cá chuyển sanh ở dòng tộc Thích Ca,
con cá trong hồ chuyển sanh thành vua Lưu Li thống lãnh binh tấn công dòng tộc
Thích Ca, ai cũng không cứu nổi bọn họ, đến cả Mục Kiền Liên thần thông quảng đại
cũng chẳng cách nào. Đứa bé mà lúc bấy giờ cầm cái gậy đánh con cá 3 cái chính
là ta, vào hôm nay cộng nghiệp sản sinh, ta cũng đau đầu 3 ngày, đấy là định
nghiệp bất diệt.
Vậy
thì đối với oan nợ nghiệp lực của cộng nghiệp phải chăng là bó tay chẳng có biện
pháp giải quyết, ngồi mà chờ chết ? chẳng phải là như thế, từ bi hỷ xả có thể
chuyển hóa nghiệp lực.
Lúc
vua Lưu Li công phá thành, muốn diệt dòng tộc Thích Ca, quốc vương của tộc
Thích Ca là Ma Ha Na Ma, vì dòng tộc của ngài mà khẩn cầu vua Lưu Li rằng : “
Bây giờ ông muốn giết chết nhiều người như vậy cũng chẳng dễ dàng, tôi khẩn cầu
ông hãy để tôi lặn dưới nước, còn ông thì hãy bảo họ trốn chạy, đợi khi tôi từ
trong nước đi lên, những người chạy trốn không kịp thì ông hãy giết ”. Vua Lưu
Li trong lòng nghĩ rằng giết vài vạn người cũng rất phiền phức, mà một người lặn
vào trong nước không thể lâu được, do vậy bèn nhận lời.
Lúc
vua Ma Ha Na Ma lặn vào trong nước, mọi người ngay tức khắc chạy trốn, nhưng
lúc hơn 3 vạn người chạy trốn đến chẳng còn một ai, ông ta bắt đầu lo lắng sốt
ruột, cũng cảm thấy kì lạ vì sao Ma Ha Na Ma có thể lâu như vậy đều không ra khỏi
nước, do vậy bèn lệnh cho một người xuống dưới nước điều tra xem, lúc người đó
lên nói với vua Lưu Li rằng : “ Đại vương Ma Ha Na Ma vĩnh viễn sẽ chẳng nổi
lên, ông ta vì cứu dòng tộc của mình nên đã buộc tóc mình vào gốc cây, ôm lấy
cây chết rồi ! ”. Lúc này vua Lưu Li im lặng chẳng nói lời nào, lập tức thu
binh trở về.
Mục
Kiền Liên thần thông bậc nhất dùng pháp lực thần thông đều chẳng cách nào thay
đổi nghiệp lực, rốt cuộc nghiệp lực đã bị quốc vương Ma Ha Na Ma từ bi hỷ xả
làm thay đổi, vốn dĩ dòng tộc Thích Ca khó mà trốn thoát khỏi cái kiếp diệt tộc,
vì thế mà đã miễn được tai họa toàn tộc bị tiêu diệt.
Sư Mẫu
lúc bấy giờ do quan khảo nghiêm trọng, chẳng nỡ để cho các đệ tử bị bắt bị nhốt
nên đã tự cầm tù bản thân mình để gánh thay quan khảo cho các đệ tử, đấy là
nguyện lực từ bi hỷ xả đã hóa giải.
Thần
thông không phải là cứu cánh, thần thông chống đỡ không nổi nghiệp lực, thần
thông chống không nổi đạo đức, còn nghiệp lực chống không nổi chánh niệm.
B.
Cách xử lí lúc khẩn cấp
1. Mặc
niệm trì tụng tam bảo :
Các
đệ tử đã cầu đạo hãy ghi nhớ phải sử dụng tam bảo, ý thủ huyền quan, mặc niệm
ngũ tự chân ngôn, tay ôm hợp đồng, thành tâm kính ý nghĩ đến vị tiên phật bồ
tát có duyên với bạn nhất, khẩn cầu tiên phật xoay chuyển trợ hóa, tự nhiên sẽ
có tiên phật bảo vệ, độ thoát nguy nan, phùng hung hóa cát. Chỉ cần thành tâm
khấu đầu, trì tụng chân ngôn để hóa giải. Di Lặc chân kinh rằng : chỉ cần thường
thường trì niệm thì tà thần chẳng dám đến gần thân.Niệm một lần thì thần thông
quảng đại, niệm hai lần thì được siêu sinh liễu tử, niệm ba lần thì quỷ thần đều
sợ hãi, tất cả những tà ma quỷ quái đều hóa thành vi trần.
Tâm
chánh ý định : lúc chúng ta gặp phải nguy nan khẩn cấp phải tâm chánh ý định,
chẳng kinh hoàng sợ hãi, tâm lo sợ bất an thì ma vào, một cái chánh thì có thể
phá vạn cái tà.
2. Đến
Phật đường cầu trợ giúp :
Thiên
đường gần nhất chính là phật đường của nhân gian. Phật đường là cung điện của
Vô Cực Lão Mẫu, là tịnh độ của nhân gian, là chỗ tị nạn của chúng sanh. Lúc gặp
phải nguy nan khẩn cấp càng nên tiếp cận phật đường nhiều, có thể thỉnh mời tiền
hiền đại đức dẫn mọi người khấu đầu sám hối trước phật đường, khẩn cầu Lão Mẫu
từ bi. Những ví dụ của việc dưới sự phù hộ của tiên phật mà phùng hung hóa cát
thì quá nhiều không thể kể ra hết từng cái một được.
3. Tận
nhân sự nghe thiên mệnh :
Chúng
ta có thể đưa ra bất kỳ lời cầu nguyện nào với tiên phật, nhưng sau khi khẩn cầu
xong thì tâm phải buông xuống, tận nhân sự, nghe thiên mệnh ( tận hết sức mình
mà đi làm, nhưng có thể thành công hay không thì phải xem tình hình, ý trời ),
tùy duyên mà hành, tuyệt đối không thể quá ư kỳ vọng mong đợi. Bởi vì chúng ta
đều chẳng rõ đầu đuôi nhân quả nghiệp lực của bản thân, nên tùy thuận nhân quả,
học tập chấp nhận nghịch cảnh, chẳng sanh oán hận trách móc. Nên chấp nhận số mệnh
nếm khổ để liễu nghiệp chướng, nợ hết thì khổ cũng chấm dứt.
▲ Lợi
ích của việc thường ngày tạo thiện nhân
Tâm thường yên ổn thanh
bình
Thần Minh phù hộ
Người khác thường tôn kính
Ban đêm ngủ ít nằm mơ thấy
ác mộng
Ít bị đố kị
Tà ma chẳng vào
Con cháu hiền minh
Tránh tai tị kiếp
Kết
luận
Sự
báo ứng của nhân quả tuyệt đối không có may mắn, chớ có tự cho rằng mình không
đến nỗi xui xẻo bị tìm đến.
Tam
Thiên Chủ Khảo rằng : “ Tu đạo việc của mình, liên quan gì đến người ? chẳng tu
oan khiên tìm, ai có thể cứu thoát ? ”
Thầy
rằng : “ muốn chấm dứt món nợ kiếp trước, dựa vào công đức có thể tiêu trừ ”,
cũng nói rằng : “ chúng sanh nhạo báng người tu đạo, thậm chí sỉ nhục người tu
đạo, đấy đều là đang tiêu oan nghiệt của người tu đạo, càng nhiều càng tốt ”
Chúng
ta người tu đạo, mỗi một người đều có oan nợ, càng nên tích phúc mà tiêu tội, cần
mẫn bồi công đức để bảo vệ tánh mạng, an phận giữ mình, lập nguyện mà liễu nguyện,
liễu nguyện về Lý Thiên.
Chúng
ta chẳng những phải phản tỉnh sâu những lỗi lầm trong quá khứ của mình do tâm
thái, quan niệm sai lầm của mình mà không ngừng kết xuống đủ thứ ác duyên với
những người bên cạnh mình, càng nên lúc nào cũng khấu đầu sám hối trước phật,
chân tâm sám hối những lỗi lầm của mình.
Duyên
khởi duyên diệt thường ở “ giữa một niệm ”, mà một niệm này có thể kết xuống
thiện duyên, cũng có thể trở thành kẻ địch với những người ở xung quanh mình,
cho dù là người thân cận nhất với mình. Gặp phải sự việc chúng ta vẫn cứ hay là
quen bảo vệ mình trước tiên ( tuy rằng chưa hẳn có ý làm tổn thương người khác
), cũng do loại thiên kiến của sự ngã chấp này dẫn đến sự đối lập giữa mình với
người khác. Thật ra chỉ cần nghĩ đến nên suy nghĩ vì lợi ích của mọi người, suy
nghĩ cho chúng sanh, tự nhiện bèn sanh khởi tâm bao dung, chỉ cần thường nghĩ “
sinh mệnh vô thường ”, bèn dễ dàng buông xuống thị phi của người và mình, giữ lấy
nguyên tắc “ những thiện niệm đã nảy sinh thì khiến cho nó tăng trưởng thêm, những
thiện niệm chưa nảy sinh thì khiến cho nó nhanh chóng nảy sinh, những ác niệm
đã khởi sinh thì khiến cho chúng bị diệt trừ, những ác niệm chưa nảy sinh thì
khiến cho chúng chẳng nảy sinh ” để nỗ lực. Những ác duyên của quá khứ thì tự
làm tự chịu, những ác duyên còn chưa hiện ra trước mắt cũng khiến cho chúng do
nỗ lực của mình mà nở hoa tốt, kết quả thiện. Chúng ta nên suy nghĩ ngược lại :
khi đối mặt với những người đã gây cho mình nghịch cảnh hoặc sự khó chịu, chúng
ta có thể xem đối phương là thị hiện của bồ tát đang khảo nghiệm chúng ta ? có
thể cảm ân đối phương là nhân duyên trợ đạo ? dùng tâm cảm ân, từ bi, bình đẳng
để xem xét đối đãi mỗi một lần của nghịch cảnh là phương pháp tiêu oan giải
nghiệt tốt nhất, cũng chính là bất nhị pháp môn của việc hành bồ tát đạo.
Tóm
lại thì “ oan có đầu, nợ có chủ ”. Mỗi người có những oan nghiệt không giống
nhau, phải biết rằng oan oan tương báo không có kì chấm dứt, kiếp kiếp bám nhau
( quấy rầy ) khó nghỉ ngơi, vậy nên tùy duyên liễu nghiệp cũ, càng chớ nên tạo
thêm những họa ương mới. Không thể để nợ cũ chưa sạch, nợ mới lại đến, vậy thì
vĩnh viễn chẳng xong chẳng dứt mà trầm luân trong biển khổ của sinh tử. Chúng
ta nên thật tốt mà hành công lập đức, hồi hướng cho những oan thân nợ chủ, làm
một người hiền lương sạch sẽ, làm một người tiêu diêu tự tại.
0 comments :
Post a Comment