Bảo
Tạng của tự gia
( Kho báu nhà mình )
( Kho báu nhà mình )
我有明珠一顆,
久被塵勞封鎖,
今朝塵盡光生,
照破山河萬朵
Ta
có Minh Châu một hạt
Đã lâu bị trần lao ( phiền não ) phong tỏa
Hôm nay bụi sạch sáng chiếu
Soi tột núi sông muôn thứ
Đời Đường có một vị Huệ Hải Hòa Thượng, quê ở Kiến Châu, từ nhỏ xuất gia theo Hoà thượng Đạo Trí chùa Đại Vân ở Việt Châu, trải qua 10 năm khổ tu khổ luyện vẫn là mê hoặc vô chủ. Có một hôm, nhân có người chỉ dẫn, Sư bôn ba vất vả đến yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất Thiền Sư, cũng chính là vị tổ đời thứ 7 hậu đông phương của Tiên Thiên Đại Đạo trong đạo mạch truyền thừa.
Đã lâu bị trần lao ( phiền não ) phong tỏa
Hôm nay bụi sạch sáng chiếu
Soi tột núi sông muôn thứ
Đời Đường có một vị Huệ Hải Hòa Thượng, quê ở Kiến Châu, từ nhỏ xuất gia theo Hoà thượng Đạo Trí chùa Đại Vân ở Việt Châu, trải qua 10 năm khổ tu khổ luyện vẫn là mê hoặc vô chủ. Có một hôm, nhân có người chỉ dẫn, Sư bôn ba vất vả đến yết kiến Mã Tổ Đạo Nhất Thiền Sư, cũng chính là vị tổ đời thứ 7 hậu đông phương của Tiên Thiên Đại Đạo trong đạo mạch truyền thừa.
Mã Tổ
gặp Sư hỏi : " Từ đâu đến ? "
Sư
thưa : " Từ chùa Đại Vân ở Việt Châu đến."
Mã Tổ
hỏi : " Đến đây cầu việc gì ? "
Sư
thưa : " Đến cầu Phật pháp."
Mã Tổ
bảo : “ Kho báu nhà mình mà chẳng đoái hoài, lại bỏ nhà đi xa, tìm cái gì ? Ta trong ấy không có một vật , cầu Phật pháp
cái gì ? "
Sư hỏi :
" Thầy nói cái gì là kho báu của Huệ Hải ? "
Mã Tổ
bảo : " Cái người mà chính nay hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả
không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài ! "
Nhân
câu nói này, Sư đại ngộ thông suốt, tự nhận bổn tâm không do hiểu biết, từ đấy
tiêu diêu tự tại.
Trên
thực tế thì không chỉ là Huệ Hải Thiền Sư tự bản thân có kho báu vô tận, mà
trên thân của mỗi một chúng sanh trên thế gian này đều tàng chứa những kho báu
vô tận giống như vũ trụ tự nhiên. Năng lượng bất sanh bất diệt trong vũ trụ
tàng chứa trong sinh mệnh của chúng ta. Chỉ là đại đa số người chưa có mở ra
kho báu mà chẳng biết là có báu vật trong đó.
Thế
nhưng các đệ tử của Tiên Thiên Đại Đạo do được Di Lặc Tổ Sư thọ kí cho chúng
ta, truyền xuống con đường tu hành “ trực chỉ nhân tâm kiến tánh thành phật ”,
đã mở ra khóa vàng huyền quan, chỉ là đa số đạo thân do những tập tính nhiễm trần
của quá khứ mà chẳng cách nào khởi lòng tin, chẳng cách nào tin tưởng gánh vác
sự thật “ kiến tánh thành phật ”, dẫn đến việc vào núi báu mà trở về tay không,
vẫn sống trong cái bóng của quá khứ hướng ra ngoài chạy lăng xăng. Thực tế thì
năng lực, trí tuệ chẳng cần phải hướng ra bên ngoài mà tìm cầu, chỉ cần khai
phát năng lượng của tự thân thì trí tuệ năng lực vô hạn đều sẽ triển hiện vọt
ra trong sinh mệnh.
Để
các vị Tiền Hiền tin tưởng dứt khoát đối với việc “ cầu đạo ”, cái pháp môn kiến
tánh này, chúng ta lại từ trong những kinh điển cổ xưa ấn chứng từng cái.
______________________________________________________________________
Tam
Tạng Đại Nhĩ và Huệ Trung Quốc Sư.
Có một
người Ấn tên Tam Tạng Đại Nhĩ sang Trung Hoa, tự xưng có tha tâm thông, là một
loại thần thông thấy được tâm người khác. Vua muốn trắc nghiệm chân giả thực hư
về công phu của Tam Tạng Đại Nhĩ nên mới mời vào cung gặp quốc sư Huệ Trung. Quốc
Sư Huệ Trung là vị đệ tử chánh tông một mạch tương truyền của Lục Tổ Huệ Năng,
là vị Thiền Sư kiến tánh đắc đạo.
Lần
thứ nhất quốc sư khởi tâm nghĩ đến cầu Thiên Tân rồi hỏi:
-
Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam
Tạng Đại Nhĩ dùng thần thông nhìn Huệ Trung Quốc Sư một cái rồi nói:
-
Ngài là quốc sư của một nước mà sao tâm lại đến cầu Thiên Tân xem người ta đùa
giỡn khỉ ?
Lần
thứ hai quốc sư nghĩ đến bến đò Tây Xuyên rồi hỏi Tam Tạng:
-
Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam
Tạng đắc ý nói :
-
Ngài là một quốc sư sao tâm lại đến bến đò để xem đò đua?
Lần
thứ ba quốc sư sau khi tiến hành thiền định, trầm ngâm rất lâu, lại hỏi:
-
Bây giờ tôi đang ở đâu?
Tam
Tạng tìm hoài không được, nhìn chẳng thấy hình ảnh tâm của Huệ Trung Quốc Sư.
Ngài hỏi thúc:
- Ở
đâu, nói xem?
Tam
Tạng tìm không ra. Cuối cùng quốc sư quở:
- Chồn
tinh ! tha tâm thông ở chỗ nào?
Tam
Tạng pháp sư trầm mặc chẳng nói lời nào.
Rốt
cuộc thì Huệ Trung Quốc Sư đã sắp đặt tâm như thế nào mà Tam Tạng Đại Nhĩ tìm
mãi không được ?
Câu
chuyện này sau đó đã lưu truyền một thời gian trong các chùa viện, trở thành đề
tài thảo luận của các Thiền Tăng. Vấn đề này là vấn đề mà rất nhiều người tham
thiền nghĩ mãi mà chẳng cách nào lí giải được. “ Cảnh Đức Truyền Đăng Lục ghi
chép rằng sau đó đã có vị Tăng nhân hỏi Triệu Châu Thiền Sư ( 778-897 ) rằng “
Khi Tam Tạng Đại Nhĩ không nhìn thấy Quốc Sư vào lần thứ 3 thì tâm của Quốc Sư
đã ở đâu ? ”
Triệu
Châu Thiền Sư trả lời rằng : “ Bởi vì Huệ Trung Quốc Sư đã ở trên lỗ mũi của
Tam Tạng rồi ”. Triệu Châu Thiền Sư là vị thiền đức đắc đạo nổi tiếng nhất
đương thời. Câu trả lời này của ông ta không những đã giải đáp sự nghi hoặc của
vô số người, cũng đã ấn chứng sự tu hành của Tiên Thiên Đại Đạo.
Phía
trên của lỗ mũi tức là “ huyền quan ” cũng là “ hoàn hương chi đạo ” ( con đường
trở về cố hương ) của tất cả những người đắc đạo. Tam Tạng Đại Nhĩ do chưa từng
đắc đạo, do đó cái điểm huyền quan – hoàn hương chi đạo này chưa từng mở ra, vì
thế mà mặc cho ông ta lên trời xuống đất tìm kiếm cũng tìm chẳng thấy.
__________________________________________________________
Một
chỉ của Minh Sư – pháp môn kiến tánh
Có
người nói rằng : “ Thiền phải tự tu tự ngộ, lẽ nào cần đến Minh Sư xuất thế chỉ
điểm cho ? ”
Tự
ngộ cố nhiên có tính khả năng của nó, thế nhưng trong vạn người chỉ có một, hai
người có thể, vả lại những chúng sanh của thời mạt pháp chịu sự dụ hoặc của thanh
sắc tập nhiễm quá sâu, nếu muốn tự tu tự ngộ tự chứng thật sự là rất khó khăn;
nếu chẳng phải là có lòng tin hoàn toàn thì tốt nhất vẫn là đi tìm cầu Minh Sư.
Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư cũng nói rằng : “ nếu chẳng tự ngộ, phải tìm đại thiện
tri thức đã khai ngộ pháp tối thượng thừa, chỉ ngay đường lối CHÁNH PHÁP, vì
thiện tri thức có nhân duyên lớn giáo hoá dẫn dắt, khiến hành giả được KIẾN
TÁNH. ”
Thì
ra Đại Thiện Tri Thức mà Lục Tổ đã nói là thiện tri thức mà có thể khiến cho
người ta kiến tánh. Chỉ có đọc tụng kinh điển, nếu không gặp được Minh Sư thì
cũng là vô ích.
Đạt
Ma Huyết Mạch Luận có nói rằng : “ Nếu không gấp tìm thầy thì uổng qua một đời.
Dù rằng Phật tánh vốn sẵn, nếu không nhờ Thầy, rốt cuộc cũng không thấu rõ. Người
không thầy mà ngộ, trong vạn người khó tìm được một. Nếu tự mình hội đủ nhân
duyên mà rõ được ý Thánh Nhân không nhờ học hỏi bậc thiện trí thức, đó là người
mới sinh đã biết, là bậc đã vượt qua sự học rồi vậy ( vô học ). ”
Do vậy
Chí Công Thiền Sư nói rằng : 「不逢出世明師,枉服大乘法藥。」“ không gặp được Minh Sư xuất thế thì uổng phí
việc đã dùng các thuốc pháp đại thừa ” .
Chí Công Thiền Sư là thời nhà Nam Bắc, Quốc Sư của vua Lương Võ Đế, ông nói rằng
: Nếu không gặp được Minh Sư có thiên mệnh ( vị Minh Sư được trời phái xuống để
truyền thụ phép siêu sinh liễu tử ) thì cho dù thuộc hết tất cả pháp môn đại thừa
trong toàn bộ kinh điển của Thánh Phật và đồng thời còn khéo vận dụng tu hành nữa
vẫn không thể nào đạt được siêu sinh liễu tử, chỉ uổng công mà thôi. Thế nhưng
“ Minh Sư xuất thế ”, “ Đại Thiện tri thức ” ở đâu ?
“ Nay
con được một chỉ, phiêu phiêu nơi thiên đường, chẳng có sinh và tử, cả ngày luyện
thần quang. ”
Đấy
là Minh sư ( Tế Công Hoạt Phật, Nguyệt Tuệ Bồ Tát ) mà Đương Lai hạ sanh Di Lặc
Phật phái đến, vào cái sát na cầu đạo, Minh Sư nhờ vào đại uy thần lực chẳng thể
nghĩ bàn của Phật Di Lặc mở ra một con mắt “ huyền quan ” của Tông Môn. Một chỉ
này giống như Phật Thích Ca Mâu Ni dùng cà sa che lại, chỉ thụ cho Ca Diếp,
cũng như Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn canh ba truyền pháp phó chúc Huệ Năng. Một chỉ kinh
thiên động địa này là pháp niết bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng mà các vị Tổ
Sư đời đời tương truyền, và ý nghĩa, mục đích của một chỉ chỉ có một là “ trực
chỉ nhân tâm, kiến tánh thành phật ”.
Từ đấy
về sau, một con đường thành phật bèn khai triển trước mắt, một con đường hướng
lên chẳng có thoái chuyển, cũng chẳng có ngoằn nghoèo quanh co.
Một
chỉ của Minh Sư đã mở ra huyền quan, nơi tồn tại của bổn tâm. Huệ Trung Quốc Sư
do đắc được thiên mệnh chơn đạo mà Lục Tổ đã truyền, do vậy cũng đã từng mở ra
huyền quan bổn tâm tự tánh này khi đắc đạo. Do đó khi Tam Tạng Đại Nhĩ tìm kiếm
tâm của ông ta, ông ta ngay lúc ấy ý thủ huyền quan, hồi quang phản chiếu. Khi
ý niệm trở về đến huyền quan, ý niệm cũng có thể ở khắp tất cả mọi nơi, do đó
ông ta ngay lúc ấy ý niệm cũng trú ở chỗ huyền quan của Tam Tạng Đại Nhĩ. Tam Tạng
Đại Nhĩ do chưa đắc đạo nên tìm khắp chẳng thấy.
_________________________________________________________
Ấn
chứng của Tổ Sư
Phật
Thích Ca Mâu Ni khi giảng Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, từ nơi vòng lông trắng giữa
hai chân mày Phật phóng ra một luồng hào quang chiếu khắp 18000 cõi nước ở
phương Đông, dưới chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên thấu đến cõi trời Sắc Cứu Cánh.
Thế nhưng trong hội Pháp Hoa, trên thực tế thì Phật Thích Ca Mâu Ni chẳng có
nói phật pháp gì, mà là thọ kí cho tất cả những chúng sanh hữu duyên, cũng có
nghĩa là điểm đạo. Và Phật Đà trước khi điểm đạo bèn thị hiện trước từ nơi vòng
lông trắng giữa hai chân mày Phật ( cũng chính là huyền quan ) phóng ra một luồng
hào quang, cũng là để khiến cho chúng sanh có thể khởi lòng tin đối với diệu
pháp huyền quan.
Thời
Nam Bắc triều, đức Di Lặc hóa thân thành Phó Đại Sĩ, lúc bấy giờ truyền pháp
môn kiến tánh, rộng làm giáo hóa, và trong “ Chỉ Nguyệt Lục ” cũng ghi chép rằng
ngài thời thời khắc khắc lúc nào ý niệm cũng đều trói buộc ở giữa hai mắt,
ngưng thần phóng quang.
Khi
Ngài ứng tích tại Song Lâm, thì tên của Ngài là: Phó Đại Sĩ, và lúc Ngài hóa
thân ở Nhạc lâm, thì hiệu của Ngài là: Bố Đại Hòa Thượng.
Ngài
Bố Đại Hòa Thượng có bài kệ rằng :
我有一布袋,虛空無掛礙,
打開遍十方,入時觀自在。
Dịch
nghĩa :
Ta
có cái túi vải,
Rỗng rang không quái ngại;
Mở ra khắp mười phương,
Thâu vào Quán tự tại.
Rỗng rang không quái ngại;
Mở ra khắp mười phương,
Thâu vào Quán tự tại.
Có một
Ông Trần cư sĩ thưa với ngài rằng : “ Đệ tử rất ngu, biết làm sao cho đặng thấy
tánh Phật ”.
Ngài
bèn đáp bài kệ :
只個心心心是佛,十方世界最靈物;
縱橫妙用可憐生,一切不如心真實。
Dịch nghĩa :
Phật
tức tâm, tâm ấy là Phật,
mười phương thế giới ( là ) vật linh nhất;
Tung hoành ( ngang dọc ) diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật.
mười phương thế giới ( là ) vật linh nhất;
Tung hoành ( ngang dọc ) diệu dụng biết bao nhiêu,
Cả thảy chẳng bằng tâm chơn thật.
Thời
cận đại Sư Tôn Thiên Nhiên Cổ Phật của chúng ta ứng thế. Ngài sau khi đắc đạo
cũng thường là ý niệm chẳng rời huyền quan. Sư Tôn nói rằng : :「迴光返照者,當體如來尊。」“ Hồi
quang phản chiếu giả, đương thể Như Lai Tôn ”, bảo với chúng ra chỉ cần có thể
lúc nào tâm cũng trói buộc nơi huyền quan thì cái thể phàm tục của chúng ta
cũng vô lượng tự tại giống như Phật vậy. Sư Mẫu cũng nói rằng : 「二六守玄,掃妄現自佛顏。」” nhị
lục thủ huyền, tảo vọng hiện tự phật nhan ”, dạy cho chúng ta rằng nếu mỗi ngày
cả ngày đều có thể thủ huyền thì tất cả mọi vọng tưởng tự nhiên quét trừ, tự
tánh phật nhan hiện ra ngay trước mắt.
_________________________________________________________
Đồng
quy phương thốn ( đồng về một tấc vuông )
Ấn
chứng của Tứ Tổ
Trong
đạo trường thường gọi huyền quan là “ phương thốn bảo địa ” . Mảnh đất phương
thốn nho nhỏ này vì sao thường được ví như là chí bảo vô thượng ? thật ra
phương thốn bảo địa này không phải là Tiên Thiên Đại Đạo ngày nay độc truyền độc
thụ, mà là bất nhị pháp môn của người tu hành đắc đạo, truyền đạo, ấn chứng đạo
từ xưa đến nay. Tứ Tổ Đạo Tín Thiền Sư đến núi Ngưu Đầu tìm Pháp Dung Hòa Thượng,
nhìn thấy Pháp Dung đang ngồi thiền trên tảng đá, dường như chẳng để ý đến ai.
Sư hỏi :
Ở đây làm gì ? Pháp-Dung đáp : Quán tâm. Quán là người nào, tâm là vật gì ?
Pháp-Dung không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ thưa: Đại đức an trụ nơi nào?
Sư
đáp : Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.
- Ngài
biết thiền sư Đạo-Tín chăng ?
- Vì
sao hỏi ông ấy ?
- Vì
nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết.
- Thiền
sư Đạo-Tín là bần đạo đây.
- Vì
sao Ngài quang lâm đến đây ?
- Vì
tìm đến thăm hỏi ngươi, lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng ?
Pháp-Dung
chỉ phía sau, thưa : Riêng có cái am nhỏ.
Pháp-Dung
liền dẫn Sư về am. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng, Sư giơ
hai tay lên làm thế sợ. Pháp-Dung hỏi : Ngài vẫn còn cái đó sao ? Sư hỏi : Cái đó
là cái gì ? Pháp-Dung không đáp được. Giây lát, Sư lại tấm đá của Pháp-Dung ngồi
vẽ một chữ PHẬT, Pháp-Dung nhìn thấy giật mình. Sư bảo : Vẫn còn cái đó sao ?
Pháp-Dung không hiểu, miệng chẳng thốt được lời nào, biết rằng đã gặp được Minh
Sư chơn chính, bèn vội đảnh lễ cầu xin Sư chỉ dạy chỗ chân yếu. Tứ Tổ cũng chỉ
thụ cho ông ta, sau đó Sư bảo : Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông (
phương thốn ) . Diệu đức như hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm . Tất cả môn giới, định,
huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa
nay đều không lặng. Tất cả nhơn quả đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể
ra, không có bồ-đề có thể cầu. Người cùng phi nhơn tánh tướng bình đẳng. Đại đạo
thênh thang rộng lớn bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã được không
thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có pháp gì lạ.
Pháp
Dung Thiền Sư từ đấy minh tâm kiến tánh, từ nguồn tâm “ phương thốn ” ngộ được
cái đạo lí làm phật. “ Huyền quan ” cái phương thốn bảo địa này chính là chỗ
then chốt của kiến tánh thành phật. Duy chỉ có gặp được Thiên Mệnh Minh Sư chỉ
phá mảnh đất của phương thốn mới có thể kiến tánh chứng đắc phật quả trong kiếp
này. Nếu không thì đọc nát kinh điển, ngồi rách vạn tấm bồ đoàn cũng phải tu
trên tam đại A Tăng Kì Kiếp.
_____________________________________________________________
Dựa
vào pháp vô vi mà có chỗ khác biệt.
Sau
khi đã nói nhiều về những người tu hành qua các đời các triều đại và ấn chứng của
Tổ Sư đối với huyền quan như vậy, có lẽ có một số người vẫn chẳng dám tin, muốn
hỏi rằng :
“ Đại
pháp kiến tánh thành phật như thế thêm trên mình tôi vì sao chẳng có chút cảm
nhận nào hết ? tôi vẫn là mơ màng chẳng biết vậy ? ”
Kim
Cang Kinh phần thứ 7 Vô Đắc Vô Thuyết nói rằng : “ tất cả Hiền-Thánh, đều do nơi
pháp vô-vi mà có từng-bực khác nhau ”
Một
chỉ của Minh Sư tức là “ pháp vô vi ”. Cái pháp vô vi này có thể khiến cho mỗi
một người trong chốc lát thì kiến tánh. Thế nhưng phương thức kiến tánh thì lại
có chỗ khác biệt. Có người kiến tánh kiến được rất vững chắc, sau khi kiến tánh
thì tức khắc khai ngộ thành phật ngay lúc ấy. Cũng có người kiến tánh đến nước
mắt đầm đìa mà cảm động chẳng cách nào hình dung nổi, nhưng cũng có những người
kiến tánh một cách mơ mơ hồ hồ. Mà sự khác biệt giữa những cái này đại để là có
liên quan đến sự tu hành của mỗi người trong quá khứ. Có một số người lũy kiếp
tu hành chưa gặp được Minh Sư, một khi thông qua một chỉ của Minh Sư thì tức khắc
liễu ngộ thành tựu. Đương nhiên tình trạng loại này tương đối ít vào đời mạt
pháp, bởi vì những chúng sanh mạt pháp căn cơ thấp kém. Thế nhưng cũng có những
người xuất gia sau khi cầu đạo thì lập tức có chỗ ngộ, rất nhanh bèn có thể khế
nhập khởi lòng tin vui vẻ nhiệt liệt. Cũng có những hành giả tu mật tông, vào
cái sát na cầu đạo, không làm chủ được bản thân nước mắt đầm đìa mà không ngừng
khấu đầu lễ bái, bởi vì những hành giả học Mật cả đời tìm kiếm bậc Thượng Sư,
duy chỉ có bậc Thượng Sư thật sự có duyên với họ mới có thể khiến cho họ khai
ngộ giải thoát. Thế nhưng đương nhiên đa số người do cái nhân duyên “ đắc trước
tu sau ” này mà cầu đạo, do đó kiến tánh một cách mơ mơ hồ hồ. Đại đa số các đạo
thân do quá khứ trước đây chưa có kinh nghiệm tu hành, do đó nhiều cái mơ mơ hồ
hồ, có lẽ cảm thấy trong lòng rất bình an, rất vui nhưng cũng chẳng rõ rốt cuộc
vì cái gì ?
Có
thể nói rằng “ kiến tánh ” là một loại công phu vén mây thấy trăng. Có người
sau khi kiến tánh, rất nhanh mây đen lại che lấp mặt trăng; có người sau khi
vén mây thấy trăng thì tự tánh chẳng mê mất nữa, chẳng bị mây đen che phủ nữa,
tức khắc thành Phật.
Một
chỉ của Minh Sư là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành phật. Chỉ có điều là bạn
có dám gánh vác hay không ? nếu có thể gánh vác, ngay lúc ấy hướng thẳng đến cảnh
giới của phật. Nếu chẳng dám gánh vác, chỉ có thể tu luyện dần dần. Sự thật của
“ kiến tánh ” vào cái sát na của một chỉ của Minh Sư đã hoàn thành chẳng có
chút nghi ngờ, còn con đường “ thành phật ” thì phải xem mức độ tín thụ phụng
hành của mỗi người rồi.
0 comments :
Post a Comment