BACK TO TOP
Thánh Nhân cầu "Tâm" chẳng cầu "Phật" , Phàm Nhân cầu "Phật" chẳng cầu "Tâm"... Chẳng biết "Bổn Tâm", "Học Pháp" vô ích !
Home » , » Khai Thị Của Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Hạnh ( tiếp theo )

Khai Thị Của Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Hạnh ( tiếp theo )

Written By Bạch Dương Thâu Viên on Tuesday, November 1, 2016 | 1:05 PM



6. Thỉnh chuyển pháp luân
   “ Tôi đều đem thân, khẩu, ý ba nghiệp dùng những phương tiện ân cần khuyên mời tất cả Phật nói pháp nhiệm mầu. ”,  “ tôi luôn khuyên mời tất cả các đức Phật chuyển pháp luân chơn chánh không cùng tận, niệm niệm nối ý luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.”

   Pháp luân thường chuyển là hoằng pháp lợi sinh. Luân đại biểu cho sự viên mãn, tất cả các pháp mà phật đã nói đều là cứu cánh viên mãn. Luân là vòng tròn, có tâm của vòng tròn, cũng có chu vi. Trung tâm chuyển động của bánh xe ở tâm vòng tròn, một điểm trung tâm vĩnh viễn bất động, nhưng lại có thể sản sinh tác dụng chuyển luân ( bánh xe quay ) , chân không mà có thể diệu hữu.

   Tất cả các pháp chân không diệu hữu mà phật đã nói, diệu hữu tức là chân không, chân không chính là diệu hữu. Cho nên “ luân ” ( bánh xe ) đại biểu cho tất cả các pháp mà phật nói, nhưng bánh xe nhất định phải động, cũng có nghĩa là phật pháp nhất định phải hoằng dương, nếu không thì chúng sanh chẳng đắc được lợi ích, thuyết pháp vì chúng sanh chính là đang thúc đẩy bánh xe pháp.

   Pháp luân ( bánh xe pháp ) thường chuyển mới có thể chỉ dạy cho chúng sanh phá mê khai ngộ, rời khổ được vui. Cho nên phát tâm làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh là sự nghiệp vĩ đại không gì sánh bằng. Do vậy trong 15 điều phật quy và 6 điều thánh nguyện đều có nguyện hành của “ trọng thánh khinh phàm ”. Pháp luân sở dĩ không thể thường chuyển đều là do trọng phàm khinh thánh. Do đó tồn tâm của các Bạch Dương tu sĩ nhất định phải lấy việc lợi ích cho chúng sinh làm chủ, mà việc hành sự cũng nhất định phải lấy sự cân nhắc cho đại thể ( toàn cục diện ) làm trọng, như thế mới có thể thật sự làm đến trọng Thánh khinh Phàm.

   Các đệ tử tu đạo nhất định phải buông xuống tất cả mọi sự chấp trước của mình, khôi phục cái thiên tâm thuần tịnh vốn có, đi giúp đỡ chúng sanh, thành tựu chúng sanh, đi lên con đường giải thoát tâm tánh, siêu phàm nhập thánh. Vậy mới là thật sự làm đến trọng thánh khinh phàm, khiến cho pháp luân thường chuyển, tiếp tục chẳng ngừng việc hoằng pháp lợi sinh.

7. Thỉnh Phật trụ thế ( ở lại đời ):
  “ Các đức Như Lai như số cực vi trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện nhập Niết Bàn, cùng các Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến tất cả các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời xin đừng nhập Niết Bàn, xin ở lại đời trải qua số kiếp như vi trần trong tất cả cõi Phật, vì muốn cho tất cả chúng sanh được lợi lạc. ”

   “ hữu duyên thì gặp phật xuất thế, vô duyên gặp phật niết bàn ”. Phật pháp thường trụ ở thế gian thì người đời có phước báo, phật pháp không trụ ở thế gian thì người đời sẽ có rất nhiều tai nạn. Người tu hành từ bi vi hoài, thường cũng lập xuống thệ nguyện sâu rộng đời đời kiếp kiếp đến sinh ra ở thế gian để độ hóa chúng sanh; “ gánh kiếp cứu đời, nguyện vô chung thủy ( chẳng có sự bắt đầu và kết thúc ) ” của Bạch Thủy Thánh Đế thật sự là lòng từ bi vi hoài chẳng bỏ rơi chúng sanh của chư phật bồ tát.

   “ Phật pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác, Ly thế mích bồ đề, Kháp như cầu thố giác. ” ( tạm dịch : Phật pháp tại thế gian, Chẳng rời thế gian giác, Lià thế tìm bồ đề, Cũng như tìm sừng thỏ ). Nhân gian toàn bộ đều là những tu sĩ độ chúng, ngày ngày hoằng dương phật pháp, giáo hóa, dẫn đạo chúng sanh. Người người đều biết đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, thế giới này mới có hòa bình, nhân dân mới có thể an lạc. Phật pháp phải chăng thường trụ nơi thế gian tuy là nhân duyên của thiên thời ứng vận, tất cả đều là tuân theo ý chỉ của thượng thiên, nhưng điều này càng có tương quan với sự tu trì của người đời, và cũng tương quan với sự thành tâm của người thế gian.

   Những tai nạn của nhân gian, như thiên tai, những tai hại do các hiện tượng tự nhiên như lũ lụt, hạn hán, động đất, gió bão tạo thành là nghiệp báo, là ác báo. Thế nhưng nghiệp báo, ác báo tùy theo chánh báo mà chuyển, cũng tùy theo sự triệu cảm của lòng người mà chuyển. Thái Thượng Cảm Ứng Biên rằng : “ phước họa vô môn, duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình ” ( tạm dịch : họa phước vốn chẳng có cửa, duy chỉ có con người tự chuốc lấy, quả báo của thiện và ác như là bóng với hình ). Chúng ta không ngừng tu phước hành thiện, những người có phước báo thì ở phước địa, phật pháp thường trụ nơi thế gian.

   Cho nên muốn thỉnh mời Phật trụ thế thì người tu hành phải không ngừng hoằng pháp lợi sinh, nỗ lực tinh tiến, tu hành theo như lời phật đã dạy, có thể có tâm như thế này, nguyện như thế này, sự hành trì như thế này thì nhất định có chỗ cảm ứng.

   Thập đại nguyện vương tuy có 10 nguyện, nghiêm khắc mà nói thì 7 nguyện ở trên trong 10 nguyện lớn của Phổ Hiền thì là viên mãn. Nguyện thứ 8 đến thứ 10 ở phía sau nói về hồi hướng. Thông thường trong kệ hồi hướng thường niệm đến hồi hướng bồ đề, hồi hướng chúng sanh, hồi hướng phật đạo ( pháp giới ).

   “ Nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm phật tịnh độ ( hồi hướng pháp giới – hồi hướng khắp tất cả ) , thượng báo tứ chủng ân, hạ tế tam đổ khổ ( hồi hướng chúng sanh – hằng thuận chúng sanh ), nhược hữu kiến văn giả, tất phát bồ đề tâm ( hồi hướng bồ đề - thường học tập theo Phật ), tận thử nhất báo thân, đồng sanh cực lạc quốc

8. Thường học tập theo Phật
   “ Cùng thật hành bao nhiều hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới cây thành qủa đại Bồ Ðề, thị hiện các thứ thần thông, khởi đủ thứ các sự biến hóa, hiện đủ thứ các thân Phật ở trong đủ thứ những chúng hội” hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các vị đại Bồ Tát, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thinh Văn, Duyên Giác, hoặc ở trong đạo tràng của Chuyển Luân Vương, các vị Tiểu Vương cùng quyến thuộc, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Cư Sĩ, Trưởng Giả, Bà La Môn cùng Sát Ðế Lợi, nhẫn đến hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi Nhơn v.v...ở trong các chúng hội như vậy, dùng tiếng viên mãn như đại lôi chấn, tùy theo căn tánh của mỗi loại mà giáo hóa cho chúng sanh đều được thành thục. “. Nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Cả thảy hạnh đức như thế tôi đều học tập theo. Như đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay, các đức Phật Như Lai như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời cũng như thế ấy, trong mỗi niệm tôi đều học tập theo.

   Thường học tập theo phật, nghĩa là hồi hướng bồ đề. Phật nghĩa là giác, giác tức là bồ đề. Học phật muốn có thành tựu thì nhất định phải có Thầy chỉ dẫn, cũng phải có các đồng tu đạo bạn khích lệ lẫn nhau, học tập lẫn nhau, nhìn thấy những người hiền ( tài đức đều có ) thì muốn học tập noi theo để bắt kịp họ, nhìn thấy những người không hiền thì bên trong tự phản tỉnh lòng mình.

   “ Pháp môn vô lượng thệ nguyện học ”, bồ tát Phổ Hiền là bồ tát Đẳng Giác, dạy chúng ta thường học tập theo phật, do sự tu chứng của phật đã đạt đến cứu cánh viên mãn, chúng ta lấy phật để làm gương để đòi hỏi bản thân mình, tạo mẫu cho bản thân mình. Dụng tâm của phật, cách xử thế của phật, thậm chí sinh hoạt của phật đều là tấm gương tiêu chuẩn cho chúng ta học tập. “ Sơ phát tâm ” của phật - chúng ta phải học phát tâm của các ngài, sự “ tinh tiến chẳng thoái ” của phật - chúng ta phải học sự hành trì của ngài, sự “ dùng thân mạng để bố thí ” của phật – chúng ta phải học các ngài hy sinh phụng hiến, vẫn cứ là cái tâm chân thành cung kính như thế để học tập.

   Duy chỉ có cái “ trí bồ đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh ”.

   Sự thù thắng của một chỉ của Minh Sư càng là cái mà các đệ tử Bạch Dương nên tự mình thật tốt mà lãnh hội thêm. Tóm lại, học phật còn phải làm được đến tam bất rời :
   
   a. Không rời phật đường ( đạo trường ). Tiên thiên phật đường hữu hình có thể truyền đạo. Tự tánh phật đường vô hình có thể ấn chứng sự tôn quý của thiên mệnh.
   
   b. Không rời kinh điển ( Thánh Huấn ) : những kinh điển hữu hình, tất cả đều là những kinh giáo của phật lưu truyền hậu thế, do vậy nên theo pháp mà tu trì. Đặc biệt là kinh điển vô hình, trong thân của mỗi người có một bộ kim cang kinh của tự tánh, càng là căn bản của việc học tập theo phật.
   
   c. Không rời thiện tri thức ( các đạo thân đồng tu ) : Các đồng tu đạo bạn hướng dẫn và hỗ trợ nhau, khích lệ lẫn nhau, trong ba người cùng đi thì tất sẽ có người có thể làm thầy ta. Tất cả chúng sanh vốn dĩ thành phật, tất cả chư phật của tam thế thập phương đều là đối tượng để chúng ta học tập theo, chúng ta đều nên dùng tâm chân thành cung kính để học tập theo.

9. Hằng thuận chúng sanh :
   Bao nhiêu chúng sanh sai khác trong tất cả cõi ở mười phương pháp giới, hư không giới, chính là những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, các loài nương nơi chất tứ đại mà sanh, có giống nương nơi hư không cùng cây cỏ mà sanh. Các giống sanh loại: các thứ sắc thân, các thứ hình trạng, các thứ tướng mạo, các thứ thọ lượng, các thứ tộc loại, các thứ danh hiệu, các thứ tâm tánh, các thứ tri kiến, các thứ dục lạc, các thứ ý hành, các thứ oai nghi, các thứ y phục, các thứ ăn uống, ở trong các thôn dinh, thành ấp, cung điện, nhẫn đến tất cả Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi Nhơn v.v...loài không không chân, loài hai chân, bốn chân, nhiều chân, loài có hình sắc, loài không có hình sắc, loài có tâm tưởng, loài không có tâm tưởng, loài chẳng phải có tâm tưởng chẳng phải không tâm tưởng. Các loài như vậy tôi đều tùy thuận tất cả mà thật hành các sự vâng thờ, cúng dường, như kính cha mẹ, như thờ bậc thầy, cùng A La Hán, nhẫn đến như đức Như Lai đồng nhau không khác. Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà làm lương y, nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường chánh, nơi đêm tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng, người nghèo thiếu tôi làm cho được của báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng sanh như vậy.

   Vì sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng dường các đức Phật.

   Còn tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả đức Như Lai vui mừng.
Vì sao thế? Vì các đức Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể. Nhơn nơi chúng sanh mà sanh lòng đại bi, nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn vì nơi tâm bồ đề mà thành bậc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.

   Ví như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc cây ấy được nước rưới nhuần, thì cành lá hoa qủa thảy đều sum suê tươi tốt.

  Cây thọ vương Bồ đề ở chốn sa mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: tất cả chúng sanh là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là qủa. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng sanh thì có thể trổ bông Bồ Tát trí huệ kết thành qủa Phật toàn giác.

   Vì sao thế? Bởi các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích chúng sanh, thì có thể thành tựu qủa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cho nên qủa Bồ Ðề thuộc về chúng sanh, vì nếu không chúng sanh, tất cả Bồ Tát trọn không thể thành đạo Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Hằng thuận chúng sanh chính là hồi hướng cho chúng sanh. Tùy thuận chúng sanh chính là phải xem tất cả mọi chúng sanh là phật, là bồ tát.

   Phật nói rằng tất cả mọi chúng sanh mà ngài nhìn thấy đều có thể cùng thành phật đạo.

   “ Thượng báo tứ chủng ân, hạ tế tam đồ khổ ”, đấy là hồi hướng chúng sanh. Phật pháp niệm niệm đều không quên sự hiếu kính. Tứ ân là : thứ nhất là ân phụ mẫu, thứ nhì là ân của thầy, thứ ba là ân của quốc gia, thứ tư là ân của chúng sanh. Tất cả mọi quốc gia, xã hội, gia đình, thậm chí tất cả đại chúng trong xã hội đều có ân đức qua lại với nhau. “ Hạ tế tam đồ khổ ”, tế là cứu độ, tam đồ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta nỗ lực tu học, cũng phải giúp đỡ cho những chúng sanh của tam ác đạo rời khổ được vui.

   Kinh Hoa Nghiêm rằng : “ tình đồng vô tình, đồng viên chủng trí ”, tất cả những chúng sanh hữu tình, vô tình đều có thể viên mãn trí tuệ của phật. Kim cang kinh nói rằng : “bao nhiêu những loài chúng-sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có hình-sắc, hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời Ta đều làm cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi vô-dư niết-bàn.

   Tất cả những chúng sanh khổ nạn chúng ta phải tận tâm tận sức giúp đỡ họ. Tất cả nguồn gốc căn nguyên khổ nạn của mọi chúng sanh đều là mê muội điên đảo. Muốn giúp đỡ cho những chúng sanh khổ nạn thì nhất định cần phải khiến họ có thể tu học phật pháp, có cách nghĩ, cách nhìn đúng đắn đối với tất cả mọi sự lý của cuộc đời con người. Như thế mới có thể giải quyết vấn đề.

   Như thế viên mãn thành tựu tất cả mọi loài chúng sanh, có đầy đủ từ tâm vô lượng của “ vô duyên đại từ, đồng thể đại bi ”, và “ Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. ” mới là tinh thần của bồ tát, cũng mới thật sự là hằng thuận mọi chúng sanh. Do vậy bồ tát có thể tùy thuận chúng sanh thì là tùy thuận cúng dường chư phật . Nếu chẳng có chúng sanh thì tất cả bồ tát chẳng thể thành tựu.

10. Phổ giai hồi hướng ( Hồi hướng khắp tất cả )
   “ Từ sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức, thảy đều đem hồi hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thật hành pháp ác thảy đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Ðóng chặt cửa của tất cả các ác thú, mở bày đường chánh Nhơn Thiên Niết Bàn. Nếu các chúng sanh do vì trước kia tích tập ( chứa nhóm ) các nghiệp ác nên chiêu cảm tất cả qủa rất khổ, tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu qủa Vô Thượng Bồ Ðề. Bồ Tát tu hạnh hồi hướng như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận, sự hồi hướng của tôi vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, thân khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi. ”

   Đấy là hồi hướng pháp giới, cũng tức là hồi hướng phật đạo. Từ chỗ lễ kính chư phật, ca ngợi đức Như Lai, rộng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng …mãi cho đến hằng thuận chúng sanh, tất cả mọi công đức thảy đều hồi hướng.

   Công đức hồi hướng cho người khác rồi, vậy bản thân mình lẽ nào chẳng còn công đức nữa ? Công là công phu mình tu hành, đức là thành tựu của sự tu hành. Công đức ở bên trong pháp thân của tự tánh, công đức cần phải thấy bên trong tự tánh, sự hồi hướng công đức là sự rộng lớn của tâm lượng, thật chất thì chẳng có bất cứ sự giảm bớt nào, như đạo đức kinh đã nói : “ Thánh nhân bất tích, kí dĩ vị nhân kỉ dũ hữu, kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa ” ( tạm dịch : Bậc Thánh nhân vô dục, không tích trữ, càng giúp người mình lại càng có dư, càng cho người mình lại càng có nhiều )

   Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng nói rằng : Công đức ở trong Pháp Thân, chẳng ở tại tu phước. Sư lại nói : Kiến tánh là công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô ngại, thường thấy cái diệu dụng chân thật của tự tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm tốn là công, ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể lià niệm là đức; chẳng rời tự tánh là công, ứng dụng vô nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm Pháp Thân của công đức, phải y theo đây thực hành mới là chơn công đức. Người tu hạnh công đức, tâm chẳng khinh người, thường hành pháp cung kính. Tâm nếu khinh người, nhơn ngã chẳng dứt tức là tự chẳng có công, tự tánh hư vọng chẳng thật tức là tự chẳng có đức, vì ngã chấp quá lớn, nên thường khinh bỉ tất cả. Thiện tri thức, niệm niệm chẳng gián đoạn là công, tâm bình đẳng, hạnh ngay thẳng là đức; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Thiện tri thức, công đức phải do tự tánh tự thấy, chẳng phải bố thí cúng dường mà cầu được, nên phước đức và công đức khác nhau là vậy.

   Cho nên sự hồi hướng công đức là đang khai thác tâm lượng, đem quét dọn sạch hết những thói xấu của sự phân biệt chấp trước, “ Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ ” và “ khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu qủa Vô Thượng Bồ Ðề ”, sự hồi hướng với tâm nguyện như thế khai thác phát triển tâm lượng của chúng ta, làm viên mãn công đức tu hành.

   Sự hồi hướng công đức cũng hiện ra sự độ lượng của người tu đạo, giống như kim cang kinh đã nói : “Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả ” “thiệt không có chúng-sanh nào đức Như-Lai độ cả. Nếu có chúng-sanh mà đức Như-Lai độ đó, thời đức Như-Lai còn có tướng ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ-giả.” Do vậy “ Nếu nói lời như vầy: Ta sẽ diệt-độ vô-lượng chúng-sanh, thì vị đó không gọi là bậc Bồ-tát.” Tất cả mọi công đức hồi hướng khắp tất cả pháp giới, hồi hướng pháp giới tự tánh vốn dĩ thanh tịnh.

   Sự hồi hướng như thế nhất định cần phải làm đến : “Cõi hư không cùng tận, cõi chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận ” mà “sự hồi hướng của tôi vẫn không cùng tận ”

0 comments :

Blog Archive

Powered by Blogger.