6.
Thỉnh chuyển pháp luân
“ Tôi
đều đem thân, khẩu, ý ba nghiệp dùng những phương tiện ân cần khuyên mời tất cả
Phật nói pháp nhiệm mầu. ”, “ tôi luôn
khuyên mời tất cả các đức Phật chuyển pháp luân chơn chánh không cùng tận, niệm
niệm nối ý luôn không hở, ba nghiệp thân, khẩu, ý không hề nhàm mỏi.”
Pháp
luân thường chuyển là hoằng pháp lợi sinh. Luân đại biểu cho sự viên mãn, tất cả
các pháp mà phật đã nói đều là cứu cánh viên mãn. Luân là vòng tròn, có tâm của
vòng tròn, cũng có chu vi. Trung tâm chuyển động của bánh xe ở tâm vòng tròn, một
điểm trung tâm vĩnh viễn bất động, nhưng lại có thể sản sinh tác dụng chuyển
luân ( bánh xe quay ) , chân không mà có thể diệu hữu.
Tất
cả các pháp chân không diệu hữu mà phật đã nói, diệu hữu tức là chân không,
chân không chính là diệu hữu. Cho nên “ luân ” ( bánh xe ) đại biểu cho tất cả
các pháp mà phật nói, nhưng bánh xe nhất định phải động, cũng có nghĩa là phật
pháp nhất định phải hoằng dương, nếu không thì chúng sanh chẳng đắc được lợi
ích, thuyết pháp vì chúng sanh chính là đang thúc đẩy bánh xe pháp.
Pháp
luân ( bánh xe pháp ) thường chuyển mới có thể chỉ dạy cho chúng sanh phá mê
khai ngộ, rời khổ được vui. Cho nên phát tâm làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh
là sự nghiệp vĩ đại không gì sánh bằng. Do vậy trong 15 điều phật quy và 6 điều
thánh nguyện đều có nguyện hành của “ trọng thánh khinh phàm ”. Pháp luân sở dĩ
không thể thường chuyển đều là do trọng phàm khinh thánh. Do đó tồn tâm của các
Bạch Dương tu sĩ nhất định phải lấy việc lợi ích cho chúng sinh làm chủ, mà việc
hành sự cũng nhất định phải lấy sự cân nhắc cho đại thể ( toàn cục diện ) làm
trọng, như thế mới có thể thật sự làm đến trọng Thánh khinh Phàm.
Các
đệ tử tu đạo nhất định phải buông xuống tất cả mọi sự chấp trước của mình, khôi
phục cái thiên tâm thuần tịnh vốn có, đi giúp đỡ chúng sanh, thành tựu chúng
sanh, đi lên con đường giải thoát tâm tánh, siêu phàm nhập thánh. Vậy mới là thật
sự làm đến trọng thánh khinh phàm, khiến cho pháp luân thường chuyển, tiếp tục
chẳng ngừng việc hoằng pháp lợi sinh.
7.
Thỉnh Phật trụ thế ( ở lại đời ):
“ Các đức Như Lai như số cực vi trong tất cả
cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời toan muốn thị hiện nhập Niết
Bàn, cùng các Bồ Tát, Thanh Văn, Duyên Giác, hữu học, vô học, cho đến tất cả
các bậc thiện tri thức, tôi đều khuyên mời xin đừng nhập Niết Bàn, xin ở lại đời
trải qua số kiếp như vi trần trong tất cả cõi Phật, vì muốn cho tất cả chúng
sanh được lợi lạc. ”
“ hữu
duyên thì gặp phật xuất thế, vô duyên gặp phật niết bàn ”. Phật pháp thường trụ
ở thế gian thì người đời có phước báo, phật pháp không trụ ở thế gian thì người
đời sẽ có rất nhiều tai nạn. Người tu hành từ bi vi hoài, thường cũng lập xuống
thệ nguyện sâu rộng đời đời kiếp kiếp đến sinh ra ở thế gian để độ hóa chúng
sanh; “ gánh kiếp cứu đời, nguyện vô chung thủy ( chẳng có sự bắt đầu và kết
thúc ) ” của Bạch Thủy Thánh Đế thật sự là lòng từ bi vi hoài chẳng bỏ rơi
chúng sanh của chư phật bồ tát.
“ Phật
pháp tại thế gian, Bất ly thế gian giác, Ly thế mích bồ đề, Kháp như cầu thố
giác. ” ( tạm dịch : Phật pháp tại thế gian, Chẳng rời thế gian giác, Lià thế
tìm bồ đề, Cũng như tìm sừng thỏ ). Nhân gian toàn bộ đều là những tu sĩ độ
chúng, ngày ngày hoằng dương phật pháp, giáo hóa, dẫn đạo chúng sanh. Người người
đều biết đoạn ác tu thiện, tích lũy công đức, thế giới này mới có hòa bình,
nhân dân mới có thể an lạc. Phật pháp phải chăng thường trụ nơi thế gian tuy là
nhân duyên của thiên thời ứng vận, tất cả đều là tuân theo ý chỉ của thượng
thiên, nhưng điều này càng có tương quan với sự tu trì của người đời, và cũng
tương quan với sự thành tâm của người thế gian.
Những
tai nạn của nhân gian, như thiên tai, những tai hại do các hiện tượng tự nhiên
như lũ lụt, hạn hán, động đất, gió bão tạo thành là nghiệp báo, là ác báo. Thế
nhưng nghiệp báo, ác báo tùy theo chánh báo mà chuyển, cũng tùy theo sự triệu cảm
của lòng người mà chuyển. Thái Thượng Cảm Ứng Biên rằng : “ phước họa vô môn,
duy nhân tự triệu, thiện ác chi báo, như ảnh tùy hình ” ( tạm dịch : họa phước
vốn chẳng có cửa, duy chỉ có con người tự chuốc lấy, quả báo của thiện và ác
như là bóng với hình ). Chúng ta không ngừng tu phước hành thiện, những người
có phước báo thì ở phước địa, phật pháp thường trụ nơi thế gian.
Cho
nên muốn thỉnh mời Phật trụ thế thì người tu hành phải không ngừng hoằng pháp lợi
sinh, nỗ lực tinh tiến, tu hành theo như lời phật đã dạy, có thể có tâm như thế
này, nguyện như thế này, sự hành trì như thế này thì nhất định có chỗ cảm ứng.
Thập
đại nguyện vương tuy có 10 nguyện, nghiêm khắc mà nói thì 7 nguyện ở trên trong
10 nguyện lớn của Phổ Hiền thì là viên mãn. Nguyện thứ 8 đến thứ 10 ở phía sau
nói về hồi hướng. Thông thường trong kệ hồi hướng thường niệm đến hồi hướng bồ
đề, hồi hướng chúng sanh, hồi hướng phật đạo ( pháp giới ).
“
Nguyện dĩ thử công đức, trang nghiêm phật tịnh độ ( hồi hướng pháp giới – hồi
hướng khắp tất cả ) , thượng báo tứ chủng ân, hạ tế tam đổ khổ ( hồi hướng
chúng sanh – hằng thuận chúng sanh ), nhược hữu kiến văn giả, tất phát bồ đề
tâm ( hồi hướng bồ đề - thường học tập theo Phật ), tận thử nhất báo thân, đồng
sanh cực lạc quốc ”
8.
Thường học tập theo Phật
“ Cùng
thật hành bao nhiều hạnh khó làm khác, nhẫn đến ngồi dưới cây thành qủa đại Bồ
Ðề, thị hiện các thứ thần thông, khởi đủ thứ các sự biến hóa, hiện đủ thứ các
thân Phật ở trong đủ thứ những chúng hội” hoặc ở trong chúng hội đạo tràng của các
vị đại Bồ Tát, hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thinh Văn, Duyên Giác, hoặc
ở trong đạo tràng của Chuyển Luân Vương, các vị Tiểu Vương cùng quyến thuộc, hoặc
ở trong đạo tràng của chúng hội Cư Sĩ, Trưởng Giả, Bà La Môn cùng Sát Ðế Lợi,
nhẫn đến hoặc ở trong đạo tràng của chúng hội Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi
Nhơn v.v...ở trong các chúng hội như vậy, dùng tiếng viên mãn như đại lôi chấn,
tùy theo căn tánh của mỗi loại mà giáo hóa cho chúng sanh đều được thành thục.
“. Nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Cả thảy hạnh đức như thế tôi đều học tập
theo. Như đức Thế Tôn Tỳ Lô Giá Na hiện nay, các đức Phật Như Lai như số vi trần
trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười phương ba đời cũng như thế ấy,
trong mỗi niệm tôi đều học tập theo.”
Thường
học tập theo phật, nghĩa là hồi hướng bồ đề. Phật nghĩa là giác, giác tức là bồ
đề. Học phật muốn có thành tựu thì nhất định phải có Thầy chỉ dẫn, cũng phải có
các đồng tu đạo bạn khích lệ lẫn nhau, học tập lẫn nhau, nhìn thấy những người
hiền ( tài đức đều có ) thì muốn học tập noi theo để bắt kịp họ, nhìn thấy những
người không hiền thì bên trong tự phản tỉnh lòng mình.
“
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học ”, bồ tát Phổ Hiền là bồ tát Đẳng Giác, dạy
chúng ta thường học tập theo phật, do sự tu chứng của phật đã đạt đến cứu cánh
viên mãn, chúng ta lấy phật để làm gương để đòi hỏi bản thân mình, tạo mẫu cho
bản thân mình. Dụng tâm của phật, cách xử thế của phật, thậm chí sinh hoạt của
phật đều là tấm gương tiêu chuẩn cho chúng ta học tập. “ Sơ phát tâm ” của phật
- chúng ta phải học phát tâm của các ngài, sự “ tinh tiến chẳng thoái ” của phật
- chúng ta phải học sự hành trì của ngài, sự “ dùng thân mạng để bố thí ” của
phật – chúng ta phải học các ngài hy sinh phụng hiến, vẫn cứ là cái tâm chân
thành cung kính như thế để học tập.
Duy
chỉ có cái “ trí bồ đề Bát Nhã của chúng sanh vốn tự có, chỉ vì tâm mê chẳng thể
tự ngộ, phải nhờ đại thiện tri thức khai thị dẫn dắt để đi đến kiến tánh ”.
Sự
thù thắng của một chỉ của Minh Sư càng là cái mà các đệ tử Bạch Dương nên tự
mình thật tốt mà lãnh hội thêm. Tóm lại, học phật còn phải làm được đến tam bất
rời :
a. Không rời phật đường ( đạo trường ). Tiên
thiên phật đường hữu hình có thể truyền đạo. Tự tánh phật đường vô hình có thể ấn
chứng sự tôn quý của thiên mệnh.
b. Không rời kinh điển ( Thánh Huấn ) : những
kinh điển hữu hình, tất cả đều là những kinh giáo của phật lưu truyền hậu thế,
do vậy nên theo pháp mà tu trì. Đặc biệt là kinh điển vô hình, trong thân của mỗi
người có một bộ kim cang kinh của tự tánh, càng là căn bản của việc học tập
theo phật.
c. Không rời thiện tri thức ( các đạo thân đồng
tu ) : Các đồng tu đạo bạn hướng dẫn và hỗ trợ nhau, khích lệ lẫn nhau, trong
ba người cùng đi thì tất sẽ có người có thể làm thầy ta. Tất cả chúng sanh vốn
dĩ thành phật, tất cả chư phật của tam thế thập phương đều là đối tượng để
chúng ta học tập theo, chúng ta đều nên dùng tâm chân thành cung kính để học tập
theo.
9. Hằng
thuận chúng sanh :
Bao
nhiêu chúng sanh sai khác trong tất cả cõi ở mười phương pháp giới, hư không giới,
chính là những loài noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, các loài nương
nơi chất tứ đại mà sanh, có giống nương nơi hư không cùng cây cỏ mà sanh. Các
giống sanh loại: các thứ sắc thân, các thứ hình trạng, các thứ tướng mạo, các
thứ thọ lượng, các thứ tộc loại, các thứ danh hiệu, các thứ tâm tánh, các thứ
tri kiến, các thứ dục lạc, các thứ ý hành, các thứ oai nghi, các thứ y phục,
các thứ ăn uống, ở trong các thôn dinh, thành ấp, cung điện, nhẫn đến tất cả
Thiên, Long, Bát Bộ, Nhơn, Phi Nhơn v.v...loài không không chân, loài hai chân,
bốn chân, nhiều chân, loài có hình sắc, loài không có hình sắc, loài có tâm tưởng,
loài không có tâm tưởng, loài chẳng phải có tâm tưởng chẳng phải không tâm tưởng.
Các loài như vậy tôi đều tùy thuận tất cả mà thật hành các sự vâng thờ, cúng dường,
như kính cha mẹ, như thờ bậc thầy, cùng A La Hán, nhẫn đến như đức Như Lai đồng
nhau không khác. Trong các loài ấy, nếu là kẻ có bịnh thì tôi vì họ mà làm
lương y, nếu ai bị lạc đường thì tôi vì họ mà chỉ cho con đường chánh, nơi đêm
tối tôi vì họ mà làm ngọn đuốc sáng, người nghèo thiếu tôi làm cho được của
báu. Bồ Tát bình đẳng lợi ích cho chúng sanh như vậy.
Vì
sao thế? Vì Bồ Tát nếu có thể tùy thuận chúng sanh, thì chính là tùy thuận cúng
dường các đức Phật.
Còn
tôn trọng và thừa sự chúng sanh thì chính là tôn trọng và thừa sự các đức Như
Lai. Nếu làm cho chúng sanh vui mừng thì chính là làm cho tất cả đức Như Lai
vui mừng.
Vì
sao thế? Vì các đức Như Lai dùng tâm đại bi mà làm thể. Nhơn nơi chúng sanh mà
sanh lòng đại bi, nhơn lòng đại bi mà phát tâm bồ đề, nhơn vì nơi tâm bồ đề mà
thành bậc Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Ví
như giữa chốn sa mạc có cây thọ vương to lớn, nơi gốc cây ấy được nước rưới nhuần,
thì cành lá hoa qủa thảy đều sum suê tươi tốt.
Cây
thọ vương Bồ đề ở chốn sa mạc sanh tử rộng lớn cũng như vậy: tất cả chúng sanh
là gốc rễ, Bồ Tát là hoa, Phật là qủa. Dùng nước đại bi đượm nhuần gốc rễ chúng
sanh thì có thể trổ bông Bồ Tát trí huệ kết thành qủa Phật toàn giác.
Vì
sao thế? Bởi các Bồ Tát dùng nước đại bi làm lợi ích chúng sanh, thì có thể
thành tựu qủa Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác. Cho nên qủa Bồ Ðề thuộc về chúng
sanh, vì nếu không chúng sanh, tất cả Bồ Tát trọn không thể thành đạo Vô Thượng
Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Hằng
thuận chúng sanh chính là hồi hướng cho chúng sanh. Tùy thuận chúng sanh chính
là phải xem tất cả mọi chúng sanh là phật, là bồ tát.
Phật
nói rằng tất cả mọi chúng sanh mà ngài nhìn thấy đều có thể cùng thành phật đạo.
“
Thượng báo tứ chủng ân, hạ tế tam đồ khổ ”, đấy là hồi hướng chúng sanh. Phật
pháp niệm niệm đều không quên sự hiếu kính. Tứ ân là : thứ nhất là ân phụ mẫu,
thứ nhì là ân của thầy, thứ ba là ân của quốc gia, thứ tư là ân của chúng sanh.
Tất cả mọi quốc gia, xã hội, gia đình, thậm chí tất cả đại chúng trong xã hội đều
có ân đức qua lại với nhau. “ Hạ tế tam đồ khổ ”, tế là cứu độ, tam đồ là địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Chúng ta nỗ lực tu học, cũng phải giúp đỡ cho những
chúng sanh của tam ác đạo rời khổ được vui.
Kinh
Hoa Nghiêm rằng : “ tình đồng vô tình, đồng viên chủng trí ”, tất cả những
chúng sanh hữu tình, vô tình đều có thể viên mãn trí tuệ của phật. Kim cang
kinh nói rằng : “bao nhiêu những loài chúng-sanh, hoặc là loài noãn-sanh, hoặc
loài thai-sanh, hoặc loài thấp-sanh, hoặc loài hóa-sanh, hoặc loài có hình-sắc,
hoặc loài không-hình-sắc, hoặc loài có-tư-tưởng, hoặc loài không-tư-tưởng, hoặc
loài chẳng-phải-có-tư-tưởng, mà cũng chẳng-phải-không-tư-tưởng, thời Ta đều làm
cho được diệt-độ, và đưa tất cả vào nơi vô-dư niết-bàn. ”
Tất
cả những chúng sanh khổ nạn chúng ta phải tận tâm tận sức giúp đỡ họ. Tất cả
nguồn gốc căn nguyên khổ nạn của mọi chúng sanh đều là mê muội điên đảo. Muốn
giúp đỡ cho những chúng sanh khổ nạn thì nhất định cần phải khiến họ có thể tu
học phật pháp, có cách nghĩ, cách nhìn đúng đắn đối với tất cả mọi sự lý của cuộc
đời con người. Như thế mới có thể giải quyết vấn đề.
Như
thế viên mãn thành tựu tất cả mọi loài chúng sanh, có đầy đủ từ tâm vô lượng của
“ vô duyên đại từ, đồng thể đại bi ”, và “ Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên
chúng-sanh như thế, mà thiệt không có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả. ” mới
là tinh thần của bồ tát, cũng mới thật sự là hằng thuận mọi chúng sanh. Do vậy
bồ tát có thể tùy thuận chúng sanh thì là tùy thuận cúng dường chư phật . Nếu
chẳng có chúng sanh thì tất cả bồ tát chẳng thể thành tựu.
10.
Phổ giai hồi hướng ( Hồi hướng khắp tất cả )
“ Từ
sự lễ kính ban đầu nhẫn đến tùy thuận có bao nhiêu công đức, thảy đều đem hồi
hướng cho tất cả chúng sanh khắp trong hư không pháp giới. Nguyện cho tất cả
chúng sanh thường được an lạc, không các bịnh khổ, muốn thật hành pháp ác thảy
đều không thành, còn tu nghiệp lành thì đều mau thành tựu. Ðóng chặt cửa của tất
cả các ác thú, mở bày đường chánh Nhơn Thiên Niết Bàn. Nếu các chúng sanh do vì
trước kia tích tập ( chứa nhóm ) các nghiệp ác nên chiêu cảm tất cả qủa rất khổ,
tôi đều chịu thế cho, khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo thành tựu qủa
Vô Thượng Bồ Ðề. Bồ Tát tu hạnh hồi hướng như vậy. Cõi hư không cùng tận, cõi
chúng sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận,
sự hồi hướng của tôi vẫn không cùng tận, niệm niệm nối luôn không hở, thân khẩu,
ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi. ”
Đấy
là hồi hướng pháp giới, cũng tức là hồi hướng phật đạo. Từ chỗ lễ kính chư phật,
ca ngợi đức Như Lai, rộng tu cúng dường, sám hối nghiệp chướng …mãi cho đến hằng
thuận chúng sanh, tất cả mọi công đức thảy đều hồi hướng.
Công
đức hồi hướng cho người khác rồi, vậy bản thân mình lẽ nào chẳng còn công đức nữa
? Công là công phu mình tu hành, đức là thành tựu của sự tu hành. Công đức ở
bên trong pháp thân của tự tánh, công đức cần phải thấy bên trong tự tánh, sự hồi
hướng công đức là sự rộng lớn của tâm lượng, thật chất thì chẳng có bất cứ sự
giảm bớt nào, như đạo đức kinh đã nói : “ Thánh nhân bất tích, kí dĩ vị nhân kỉ
dũ hữu, kí dĩ dữ nhân kỉ dũ đa ” ( tạm dịch : Bậc Thánh nhân vô dục, không tích
trữ, càng giúp người mình lại càng có dư, càng cho người mình lại càng có nhiều
)
Đại
Sư Lục Tổ Huệ Năng nói rằng : Công đức ở trong Pháp Thân, chẳng ở tại tu phước.
Sư lại nói : Kiến tánh là công, bình đẳng là đức, niệm niệm vô ngại, thường thấy
cái diệu dụng chân thật của tự tánh gọi là công đức. Trong tâm khiêm tốn là
công, ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh kiến lập vạn pháp là công, tâm thể lià
niệm là đức; chẳng rời tự tánh là công, ứng dụng vô nhiễm là đức. Muốn tìm kiếm
Pháp Thân của công đức, phải y theo đây thực hành mới là chơn công đức. Người
tu hạnh công đức, tâm chẳng khinh người, thường hành pháp cung kính. Tâm nếu
khinh người, nhơn ngã chẳng dứt tức là tự chẳng có công, tự tánh hư vọng chẳng
thật tức là tự chẳng có đức, vì ngã chấp quá lớn, nên thường khinh bỉ tất cả.
Thiện tri thức, niệm niệm chẳng gián đoạn là công, tâm bình đẳng, hạnh ngay thẳng
là đức; tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Thiện tri thức, công đức phải do
tự tánh tự thấy, chẳng phải bố thí cúng dường mà cầu được, nên phước đức và
công đức khác nhau là vậy.
Cho
nên sự hồi hướng công đức là đang khai thác tâm lượng, đem quét dọn sạch hết những
thói xấu của sự phân biệt chấp trước, “ Nguyện cho tất cả chúng sanh thường được
an lạc, không các bịnh khổ ” và “ khiến chúng sanh đều được giải thoát, rốt ráo
thành tựu qủa Vô Thượng Bồ Ðề ”, sự hồi hướng với tâm nguyện như thế khai thác
phát triển tâm lượng của chúng ta, làm viên mãn công đức tu hành.
Sự hồi
hướng công đức cũng hiện ra sự độ lượng của người tu đạo, giống như kim cang
kinh đã nói : “Diệt-độ vô-lượng, vô-số, vô-biên chúng-sanh như thế, mà thiệt không
có chúng-sanh nào là kẻ được diệt-độ cả ” “thiệt không có chúng-sanh nào đức
Như-Lai độ cả. Nếu có chúng-sanh mà đức Như-Lai độ đó, thời đức Như-Lai còn có
tướng ngã, nhơn, chúng-sanh, thọ-giả.” Do vậy “ Nếu nói lời như vầy: Ta sẽ diệt-độ
vô-lượng chúng-sanh, thì vị đó không gọi là bậc Bồ-tát.” Tất cả mọi công đức hồi
hướng khắp tất cả pháp giới, hồi hướng pháp giới tự tánh vốn dĩ thanh tịnh.
Sự hồi
hướng như thế nhất định cần phải làm đến : “Cõi hư không cùng tận, cõi chúng
sanh cùng tận, nghiệp chúng sanh cùng tận, phiền não chúng sanh cùng tận ” mà
“sự hồi hướng của tôi vẫn không cùng tận ”
0 comments :
Post a Comment