Khải thị của Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Hạnh
Các
đệ tử Bạch Dương tu hành vào lúc mạt hậu nhất định cần phải thể hội thiên tâm,
hiểu rõ ý thầy, mang một cái tâm cứu thế, nỗ lực độ hóa những chúng sanh trong
thiên hạ. Thành tựu cuối cùng là ở chỗ có thể hành, cho nên Thiên Nhiên Sư Tôn
từ bi chỉ thị rằng : “ sự bình công luận quả cuối cùng của ơn trên là dựa vào đức
tánh, giới luật, tâm niệm, nguyện hạnh, hỏa hầu mà định giáng thăng, chứ chẳng ở
những danh tướng phước đức bên ngoài. ”
Tin
tưởng rằng đạo thật, lí thật, thiên mệnh là thật thì nên lập xuống đại nguyện,
bởi vì có nguyện mới có sức, mà còn phải nỗ lực đi hành động mới có thể đạt đến
mục tiêu, rốt ráo chứng quả. Cho nên các đệ tử Bạch Dương mới vào cửa phật thì
đã được thiết lập chương trình giảng dạy tu hành về “ tín nguyện hành chứng ” ,
do vậy kết quả của việc tu hành phải xem xét tỉ mỉ cuối cùng có phải là kiên
trì với nguyện đã lập, và hạnh môn ( cảnh giới tu đạo ) viên mãn mới có thể đạt
đến bỉ ngạn ( bờ bên kia ), viên thành phật đạo.
Mười
nguyện hạnh lớn của Phổ Hiền Bồ Tát đại biểu cho hạnh môn viên mãn, cũng là sự
viên mãn của đức hạnh, phật đạo vô thượng từ đây mà thành tựu. Cho nên hạnh
nguyện của Phổ Hiền là phương hướng và mục tiêu nỗ lực của các đệ tử Bạch Dương
hành Bồ Tát đạo, nhờ vào sự tu trì của thập đại nguyện vương này dẫn dắt trở về
cõi vô cực mới là cứu cánh viên mãn.
Thập
đại nguyện vương này đối với việc tu hành của các đệ tử Bạch Dương có ý nghĩa
và khải thị sâu xa. Hạnh nguyện Phổ Hiền tức là phải viên mãn quả đức của Như
Lai, nhất định phải tu đại hạnh, mỗi một hạnh môn đều tương ứng với tự tánh, vả
lại từng hạnh môn chu biến khắp pháp giới. Bất cứ một hạnh nào đều có thể rộng
nhiếp tất cả mọi hạnh, tất cả mọi hạnh cũng đều hàm nhiếp ở trong một hạnh, đấy
là bổn thể của hạnh Phổ Hiền.
” Phẩm
Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện ” là phẩm cuối cùng của “ Kinh Hoa Nghiêm ”.
Kinh
Hoa nghiêm là bộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, là kinh đệ nhất của phật
môn, là lúc Thế Tôn vào lúc 35 tuổi, đêm nhìn thấy sao sáng mà ngộ đạo, lập tức
khế nhập chư pháp thật tướng, sau khi chứng đắc vô thượng chánh đẳng chánh
giác, 27 ngày đầu dưới cây Bồ Đề nói “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh ”
cho các vị đại bồ tát, là pháp môn viên mãn của đức Thế Tôn, cũng là cương lĩnh
của phật pháp, là khái luận của phật học.
Muốn
viên mãn công đức pháp thân thanh tịnh của Như Lai thì nhất định phải tu đại hạnh.
Thập đại nguyện vương mà Phổ Hiền Bồ Tát giáo thị cho thiện tài đồng tử, tức đại
biểu cho hạnh môn viên mãn, do vậy được tôn là Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.
Không học hạnh của Phổ Hiền thì không thể viên thành phật đạo; muốn thành tựu
công đức Như Lai thì nên tu 10 loại nguyện hạnh quảng đại này. Phổ Hiền Thập Đại
Nguyện Vương là sự viên mãn của đức hạnh, cũng gọi là “ then chốt của Hoa
Nghiêm ”, cho nên muốn thành phật thì nhất định cần phải phát đại tâm nguyện thế
này, cũng nhất định cần phải có sự hành trì như vậy.
1. Lễ
kính chư phật :
“ Muốn
thanh tịnh tam nghiệp ( thân, khẩu, ý ) thì phải thường tu lễ kính ”
Điều
thứ 1 trong 15 điều phật quy của các đệ tử Bạch Dương là tôn kính tiên phật, tức
là cùng cái ý này. Lễ kính chư phật có chỗ khác với việc bái lạy phật bình thường.
Bình thường cái gọi là bái phật thật ra đa phần là cầu phước, hoặc là sự cảm ân
tôn kính đối với tiên phật, hoặc là nhiếp phục sự thần uy cảm ứng của tiên phật
mà thôi. Thật ra, nghĩa thật của việc lễ kính chư phật là phải có thể học cái hạnh
của phật, tức noi theo Thánh Hiền mà có thể đem sự từ bi của phật hành phân bố
khắp thiên hạ, phải cầu đắc chánh tông đại đạo chứ không được rơi vào những sự
mê tín của thần thông quái dị.
Lễ
kính chư phật, phải lễ kính tất cả chư phật của tam thế thập phương; đặc biệt
càng phải hiểu cái “ nhất thiết chúng sanh bổn lai thành phật ” mà trong kinh
phật đã nói. Cho nên, chư phật ở đâu ? ở đâu lại có tất cả chư phật của thập
phương tam thế ? nghĩa rộng mà nói, phổ kính tất cả chúng sanh tức là lễ kính
chư phật ! Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng chẳng phải nói là phải “ thường tu hạ tâm, phổ
hành cung kính ” ( tạm dịch : Thường phải hạ mình, cung kính mọi người ) “ nội
điều tâm tánh, ngoại kính tha nhân ” đó sao ? cho nên lễ kính chư phật thật sự
phải làm được đến “ nội tâm khiêm hạ là công, ngoại hành nơi lễ là đức ” ( tạm
dịch : trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức )
Lời
chỉ thị từ bi của Hoạt Phật Ân Sư : “ các con đều rất tôn kính các vị tiên phật
trong phật đường, thế nhưng còn vị phật tự tánh trong tâm của các con thì sao ?
các con có thật sự kính trọng hay không ? ”. Phật rằng “ tức tâm tức phật ”, vị
phật thật sự rốt cuộc ở nơi đâu ? chỉ cần tất cả mọi thứ các con làm bên trong
không rời tự tánh, bên ngoài không làm trái với hạnh của phật, tất cả mọi thứ hợp
với thiên lý, mọi thứ không trái với lương tâm, đó mới thật sự là tôn kính tiên
phật.
Lễ
kính Chư Phật thì hai chữ “ hiếu ” “ kính ” phải làm được viên mãn. “ Hiếu dưỡng
phụ mẫu, tôn kính sư trưởng ”, phải chăng đã hết sức viên mãn đạo hiếu với hai
vị tôn phật trong nhà ? phải chăng thật sự có thể tận hết cái đạo của đệ tử đối
với cái ân giúp cho mình thành tựu đức hạnh của sư trưởng ? không chỉ tồn cái
tâm cung kính đối với những người mà đã có ân nuôi dạy mình, pháp môn này nhất
định cần phải dùng cái tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng để xem và
đối đãi với tất cả mọi người, như vậy mới thật sự là lễ kính chư phật ! Nếu chỉ
cung kính đối với phật bồ tát, còn đối với người khác thì kém một chút, vậy thì
chẳng phải là “ hạnh phổ hiền ”.
Hạnh
Phổ Hiền là hạnh bình đẳng, bát luận là đối với bố mẹ, anh em, bạn bè, đồng nghiệp,
tất cả mọi người thiện, kẻ ác trong xã hội, đều phải dùng một cái tâm chân
thành, thanh tịnh, bình đẳng, cung kính để đối đãi, thậm chí đối với tất cả mọi
sự việc, vật cũng phải làm được đến cung kính viên mãn thì tức là lễ kính chư
phật.
2.
Ca ngợi Như Lai
“
dùng căn lưỡi vi diệu, mỗi căn lưỡi phát ra biển âm thanh vô tận, mỗi âm thanh
phát ra tất cả biển ngôn từ, khen ngợi
các biển công đức của tất cả đức Như Lai ”
Bất
cứ lúc nào bất cứ nơi đâu đều phải ca ngợi sự to lớn vĩ đại của công đức Như
Lai. Phần trước nói lễ kính chư phật, nay lại ca ngợi Như Lai. “ Như Lai ” và “
chư phật ” lại có chỗ nào khác nhau ? bình thường đối với hai chữ “ Như Lai ” đều
tưởng rằng là chỉ Phật Như Lai, thật ra Như Lai là như đến như đi, đến đi tự
do; Như Lai đó cũng không đến không đi, do nó vốn chẳng có sanh diệt.
Kim
Cang Kinh rằng :
“ Nếu
có người nói: Đức Như-Lai hoặc đến, hoặc đi, hoặc ngồi, hoặc nằm, thời người ấy
không hiểu nghĩa của Phật nói. Bởi vì sao? Vì Như-Lai đó, không từ nơi nào lại,
mà cũng không đi về đâu, nên gọi là Như-Lai! ”.
Ý của
Như Lai là chỉ về thật tướng của tự tánh, mà thật tướng vô tướng, do đó chẳng
có đến đi và sanh diệt. Cho nên nói “ chư phật ” bình thường là dựa trên tướng
hoặc tùng sự mà nói; còn nói “ Như lai ” thì là từ bổn thể tự tánh mà nói, cũng
chính là đối với cái chân như tự tánh mà mọi người vốn tự có đủ mà nói.
Quay
trở về lại trên thân của mỗi người chúng ta, chúng ta chẳng phải là cũng có đủ
cái chơn như tự tánh giống với chư phật bồ tát đó sao ? ca ngợi Như Lai chính
là ca ngợi cái tánh đức của chơn như bổn thể của bản thân mình, là tôn quý và
áo diệu như vậy.
Cái
đức tánh tôn quý này sau khi chúng ta cầu đắc đại đạo bảo quý, đều có thể nhận
thức được cái chân ngã ( cái tôi thật ) này, càng phải hiểu cái phật tánh bất
sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm này chính là ở trên thân của
mỗi người chúng ta.
Chẳng
có gì đáng thắc mắc sau khi Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng đắc được sự truyền pháp của
Đại Sư Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn xúc động nói rằng :
Ðâu
ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Ðâu
ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Ðâu
ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Ðâu
ngờ tự tánh vốn chẳng lay động,
Ðâu
ngờ tự tánh có thể sanh vạn pháp!
Tánh
đức của tự tánh tức là công đức pháp thân thuần tịnh, chí tôn chí quý, chí linh
chí hư, cho nên ca ngợi biển công đức của tất cả đức Như Lai
3.
Quảng tu cúng dường
“
Bao nhiêu số vi trần trong khắp cõi Phật cùng hư không pháp giới mười phương ba
đời, trong mỗi cực vi trần đều có chư Phật như số cực vi trong tất cả thế giới,
nơi mỗi đức Phật có vô số Bồ Tát vây quanh nhóm họp. Tôi dùng sức hạnh nguyện của
Ngài Phổ Hiền mà khởi lòng tín giải rất sâu và hiện tiền tri kiến, đều đem đồ
cúng dường thượng diệu mà cúng dường pháp hội của Phật. ”
Do
chủng loại cúng dường rất nhiều. do vậy phải rộng tu tất cả mọi sự cúng dường.
Cúng dường tức là bố thí, bố thí cũng là tu phước. Tất cả phước báo của nhân
gian đều do sự bố thí cúng dường mà đến, do vậy bồ tát tu lục độ thì bố thí là
hàng đầu. Người bình thường cứ tưởng rằng cúng dường tức là đốt đủ thứ nhang,
thắp đủ thứ dầu trước phật, đấy chỉ là những cúng dường hữu hình. Còn Phổ Hiền
Bồ Tát dùng cái tâm chân thành, thanh tịnh, quảng đại, bình đẳng để hành bố
thí, dùng cái tâm như thế đi bố thí gọi là cúng dường; nếu chẳng có cái tâm như
thế đi bố thí, đó chỉ có thể gọi là cầu phước. Cho nên cúng dường cũng có nghĩa
là vô tướng bố thí, giống như kim cang kinh nói rằng : “ Bồ-tát, đúng nơi pháp,
phải nên không- có-chỗ trụ-trước mà hành ( làm việc ) bố-thí. ” đấy mới là sự
cúng dường thật.
Tài
thí, pháp thí, vô úy thí, ba loại bố thí này chúng ta đều phải nghiêm túc mà tu
học mới có thể đắc được quả báo thù thắng. Phật bồ tát dạy chúng ta tu nhân, tu
nhân đắc được quả.
“
Trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết ”. Người bình thường chỉ
biết bố thí tiền tài được phước, còn bố thí pháp thì được trí tuệ. Phải biết rằng
có trí tuệ viên dung thì sẽ không nghèo khổ, có trí tuệ thì sẽ điều tâm dưỡng
tánh, cũng nhất định sẽ khỏe mạnh sống lâu. Cho nên Phổ Hiền Bồ Tát dùng một
câu thôi mà đã nói rõ ra rằng trong tất cả các thứ cúng dường, pháp cúng dường
là hơn hết, lại còn đưa ra 7 ví dụ của pháp cúng dường quảng đại vô biên.
A.
Tu hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường :
Những đạo lý mà trong kinh phật đã nói, ngoài việc theo lý mà thực hành
ra, còn phải rộng vì người khác mà nói. Như Kim Cang Kinh nói rằng : “như có
người, nơi trong kinh nầy, nhẫn đến thọ-trì một bài kệ bốn câu v.v... lại giảng
nói cho người khác, thời phước-đức nầy trội hơn phước-đức trước. ” Chẳng những
tự bản thân tu hành, còn dẫn người khác tu hành , tu hành dựa theo lời phật dạy
như thế tức là sự cúng dường thật sự.
B.
Làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường : niệm niệm độ hóa chúng sanh, mỗi một
niệm đều là giúp đỡ cho chúng sanh, khiến cho tất cả chúng sanh đạt được đến lợi
ích lớn nhất. Hoằng dương phật pháp lợi ích cho chúng sanh là sự cúng dường chư
phật thật sự.
C.
Nhiếp thọ chúng sanh để cúng dường : dẫn dắt chúng sanh cùng tu hành và lập mục
tiêu phương hướng nỗ lực, làm gương, có thể dĩ thân thị đạo - biểu hiện đạo ra
ngoài thân ( bạn đã đại diện cho đạo thì phải đem đạo biểu hiện ra ngoài, bạn
đi đến đâu cũng khiến cho người ta cảm giác “ đạo ” ở đến đó. Nếu bản thân bạn
làm tốt thì người ta sẽ nói đạo tốt ). Đấy chính là sự nhiếp thọ chúng sanh để
cúng dường.
D.
Chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường : Bồ tát đều có cái nguyện như thế,
thay thế cho chúng sanh chịu tội, chịu khổ, cũng chính là tinh thần từ bi nhìn
thấy người khác chìm mà cảm thấy giống như mình đang chìm vậy, nhìn thấy người
khác chịu đói cũng cảm giác giống như mình đang chịu đói vậy. Vốn dĩ có thể sống
ở ngôi nhà to đẹp lộng lẫy, hưởng thụ những món ngon, nếu đổi sang ở trong ngôi
nhà nhỏ, ăn cơm thô đạm bạc, tự mình tiết kiệm để giúp đỡ tất cả những chúng
sanh khổ nạn, đấy là bồ tát phát nguyện chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường.
E.
Siêng năng tu tập căn lành để cúng dường : Tất cả mọi thiện pháp từ căn này mà
sanh, do vậy tất cả vạn pháp chẳng rời tự tánh, do vậy tất cả mọi sự cúng dường
cũng chẳng rời tự tánh, tức thông đạt tất cả các pháp môn tu trì.
F.
Không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường : Sự nghiệp của bồ tát là giáo hóa chúng
sanh, giúp đỡ mọi chúng sanh phá mê khai ngộ, rời khổ được vui. Tận tâm tận sức
như thế đi hoằng pháp lợi sanh, mọi người đều có thể làm sự nghiệp của bồ tát.
G.
Chẳng rời tâm Bồ Ðề để cúng dường : Tâm bồ đề chính là tâm giác ngộ, lúc nào
cũng bảo vệ gìn giữ một bổn tâm thanh tịnh tự tại, tức là chẳng rời tâm bồ đề để
cúng dường. Chẳng những bản thân mình nỗ lực tu học, mà còn trên cầu phật đạo,
dưới độ hóa chúng sanh, người người đều như thế. Kim cang kinh – phẩm thứ 12 phần
tôn trọng chánh giáo cũng nói rằng : “ phải biết chỗ này, tất cả Trời, Người,
A-Tu-La... trong đời, đều nên cúng-dường như là tháp miếu thờ đức Phật. Huống nữa
là, có người nào hay thọ-trì, đọc-tụng, trọn cả kinh nầy!” ( phải biết chỗ này
tức chỗ như thế này của kim cang kinh là tâm, cũng là chỗ một chỉ điểm của Minh
Sư, tất cả mọi cúng dường chẳng rời tâm bồ đề này ).
Phật
bảo với Tu Bồ Đề rằng : “ Ta nhớ lại hồi thuở trước đức Phật Nhiên-Đăng ra đời,
vô-lượng vô-số kiếp về quá-khứ, Ta gặp đặng tám-trăm bốn-nghìn muôn-ức
na-do-tha các đức Phật, lúc ấy Ta thảy đều hầu-hạ, cúng-dường, không có luống bỏ
qua. ”, có thể thấy sự quan trọng của việc rộng tu cúng dường.
4.
Sám hối nghiệp chướng
Bồ
tát tự nghĩ rằng :
“
Tôi từ vô thỉ kiếp về qúa khứ, do lòng tham lam, giận dữ, ngu si khiến thân, khẩu,
ý tạo vô lượng vô biên nghiệp ác. Nếu các nghiệp ác này mà có hình tướng, thì
khắp cõi hư không cũng chẳng thể đựng chứa hết được. Nay tôi đem trọn cả ba
nghiệp trong sạch đối trước các đức Phật và chúng Bồ Tát khắp cực vi trần cõi
nước trong Pháp giới, thành tâm sám hối, về sau không tái phạm nữa, thường an
trụ nơi giới pháp trong sạch đầy đủ công đức lành. Như vậy hư không giới cùng tận,
chúng sanh giới cùng tận, chúng sanh nghiệp cùng tận, chúng sanh phiền não cùng
tận, thì sự sám hối của tôi mới cùng tận, nhưng hư không giới cho đến chúng
sanh phiền não chẳng cùng tận, nên sự sám hối của tôi đây cũng không cùng tận,
niệm niệm nối luôn không hở thân, khẩu, ý ba nghiệp không hề nhàm mỏi. ”
Nghiệp
tức là tạo tác. Nhất cử nhất động của thân thể, thân đang tạo tác tức là thân
nghiệp. Nói chuyện thì là khẩu nghiệp; ác khẩu, lưỡng thiệt, vọng ngôn, Ỷ ngữ tức
là khẩu tạo ác nghiệp. Một khi khởi tâm động niệm, trong tâm vẫn còn có vọng tưởng,
tức là ý nghiệp.
Do sự
tạo tác của 3 nghiệp mà tạo thành đủ thứ chướng ngại đối với chúng ta, đấy
chính là nghiệp chướng. Ví dụ như mỗi một niệm nghĩ đều là nghĩ về bản thân, niệm
niệm đều có cái ngã ( cái tôi ), đã chấp trước cái ngã tướng, chính là ngã chấp;
ngã chấp chẳng phá dứt thì không thể thành tựu, sẽ làm chướng ngại cho sự tu
hành của bản thân, đấy là nghiệp chướng.
Lại
còn có một loại chướng gọi là phiền não chướng, khởi tâm động niệm đều là phiền
não, bản thân phiền não chính là chướng ngại. Ngoài ra còn một loại chướng ngại
là sở tri chướng, bản thân của sở tri tức là trí tuệ, cái trí tuệ vốn có vốn dĩ
chẳng có chỗ nào mà không biết, chẳng có chỗ nào mà không thể, vốn dĩ chẳng phải
là chướng ngại, thế nhưng nếu sở tri biến thành bất tri, nghĩa là nhất định có
một loại chướng ngại đã làm trở ngại trí tuệ đức năng của chúng ta rồi, loại
chướng ngại này chính là sở tri chướng.
Cái
chướng ngại này chính là “ vô minh ”, sự làm trở ngại của vô minh đã cản trở
cái trí tuệ, đức năng tiên thiên của chúng ta rồi, cũng làm cản trở mất cái bổn
tánh tiên thiên của chúng ta, do vậy mà trí tuệ chẳng cách nào mở ra.
Làm
thế nào có thể tiêu trừ nghiệp chướng, khôi phục lại bổn tâm thanh tịnh đây ? “
Nay
tôi đem trọn cả ba nghiệp trong sạch đối trước các đức Phật và chúng Bồ Tát khắp
cực vi trần cõi nước trong Pháp giới, thành tâm sám hối, về sau không tái phạm
nữa, thường an trụ nơi giới pháp trong sạch đầy đủ công đức lành. ” đấy là
phương pháp sám hối mà bồ tát dạy đã dạy cho chúng ta.
Trước
hết phải có thể thanh tịnh 3 nghiệp thân khẩu ý, đấy là cơ sở nền tảng để sám hối
nghiệp chướng; trong 3 nghiệp lại lấy ý nghiệp làm chủ, tâm thanh tịnh thì thân
khẩu cũng theo đó mà thanh tịnh.
Thế
nào là SÁM? Thế nào là Hối? Sám là sám trừ tội trước, từ trước tất cả các tội
ác nghiệp ngu mê, kiêu căng, dối trá, ganh tỵ thảy đều sám hết, chẳng bao giờ
khởi nữa gọi là sám. Hối là hối cải lỗi sau, tất cả ác nghiệp ngu mê, kiêu
căng, dối trá, ganh tỵ... nay đã giác ngộ, đều cho đoạn dứt, chẳng bao giờ tạo
nữa gọi là hối.
Phàm
phu ngu mê, chỉ biết sám trừ tội trước, chẳng biết hối cải lỗi sau, vì chẳng hối
cải, nên tội trước chẳng diệt, tội sau lại sanh, tội trước đã chẳng diệt, tội
sau lại tiếp tục, như thế làm sao gọi là SÁM Hối được!
Đấy
là sự khai thị của vô tướng sám hối của Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng. Tất cả các tội
ác nghiệp đã có từ trước toàn bộ thảy đều sám hối, vĩnh viễn chặt đứt, vĩnh viễn
không tạo trở lại mới gọi là sám hối thật sự, và cũng duy chỉ có như vậy mới có
thể thật sự sám trừ nghiệp chướng.
Lục
Tổ cũng nói rằng : “ Mê nhơn tu phước bất tu đạo, Chỉ ngôn tu phước tiện thị đạo,
Bố thí cúng dường phước vô biên, Tâm trung tam ác nguyên lai tạo, Nghĩ tương tu
phước dục diệt tội, Hậu thế đắc phước tội hoàn tại. ”
( Tạm
dịch : Kẻ mê tu phước chẳng tu đạo, Chỉ cho tu phước tức là đạo. Bố thí cúng dường
phước vô biên, Trong tâm tam ác vẫn còn tạo. Muốn dùng tu phước để diệt tội, Kiếp
sau được phước tội vẫn còn. ). Cho nên nhất định cần phải “ Ðản hướng tâm trung
trừ tội duyên; Các tự tánh trung chơn sám hối. ” ( tạm dịch : Nhân duyên tội ác
trừ nơi tâm, Hướng vào tự tánh chơn sám hối ). Như thế mới có thể thường an trụ
nơi giới pháp trong sạch đầy đủ công đức lành.
5.
Tùy hỷ công đức :
“Bao
nhiêu đức Phật như số vi trần trong tất cả cõi Phật khắp hư không pháp giới mười
phương ba đời, từ khi mới phát tâm vì muốn chúng sanh Nhứt thiết trí mà siêng
tu cội phước chẳng tiếc thân mạng, trải qua số kiếp như số cực vi trần trong bất
khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật. Mỗi kiếp đều thí xả đầu, mắt, tay, chân
v.v...nhiều như số cực vi trong bất khả thuyết bất khả thuyết cõi Phật, làm tất
cả những hạnh khó làm như vậy, đầy đủ các món ba la mật, chứng nhập các trí địa
của Bồ Tát, trọn nên qủa Vô Thượng Bồ Ðề của chư Phật, cho đến nhập Niết Bàn
phân chia xá lợi. Bao nhiêu căn lành ấy tôi đều tùy hỷ cả. Ðến các loài lục
thú, tứ sanh, tất cả mọi chủng loại trong tất cả mười phương thế giới kia có
bao nhiều công đức, dầu nhỏ như mảy trần, tôi đều tùy hỷ. ”
Cảnh
giới mà bồ tát tu là tận hư không khắp pháp giới “ Chư Phật Như Lai từ khi mới
phát tâm vì muốn chúng sanh Nhứt thiết trí mà siêng tu cội phước chẳng tiếc
thân mạng ”. Sau khi phát tâm, phải siêng tu phước tuệ. Vì tu phước tu tuệ mà
chẳng tiếc thân mạng, khó hành mà có thể hành, khó tu mà có thể tu, dũng mãnh
tinh tiến, Chư Phật Như Lai chính là như thế mà thành tựu.
Từ
sơ phát tâm mãi cho đến độ hóa chúng sanh, tất cả mọi công đức đều phải học tập,
cũng đều phải tùy hỷ. Ta phát tâm, hy vọng người khác cũng phát tâm; ta tu
hành, hy vọng mọi người đều có thể tu hành. Có người phát tâm thì hoan hỷ tán
thán ( vui vẻ khen ngợi ). Người ta có thiện công thì hoan hỷ tán thán ! người ta có thành tựu thì cũng hoan hỷ tán
thán như vậy ! Ta chẳng những không đố kị, mà còn phải tận tâm tận sức trợ giúp
họ, thành toàn họ.
Cho
nên người khác tu trì, chúng ta tuyệt đối không thể làm chướng ngại; gây chướng
ngại cho người khác tức là làm chướng ngại bản thân. Tử Viết : “ quân tử thành
nhơn chi mỹ, bất thành nhơn chi ác ” ( tạm dịch : Khổng Tử nói rằng : “ quân tử
giúp người có được thành tích chứ không khiến người rơi vào thất bại ). Người
ta có chuyện tốt thì mình giúp đỡ họ, thành tựu họ, họ tốt, xã hội sẽ tốt, mình
cũng triêm quang, mình cũng tốt. Nghiêm túc mà tu học tùy hỷ công đức thì sẽ
thành tựu công đức thật sự của bản thân.
Tùy
hỷ công đức là đối trị cái bệnh đố kị của người tu hành. Phổ Hiền Bồ Tát còn đặc
biệt đề xuất một cái nguyện này đối với pháp thân đại sĩ, có thể thấy rằng sự đố
kị đối với người tu hành mà nói chẳng phải là bệnh nhỏ, bệnh nhẹ. Từ trên thân
của Đại Sư Lục Tổ Huệ Năng cũng có thể đại khái lãnh hội sự trầm trọng của căn
bệnh này. Khi xưa sau khi Lục Tổ Huệ Năng đắc thụ y bát đại biểu cho sự truyền
thừa của tổ vị, vì sao nhất định phải nhanh chóng rời khỏi, khởi hành đi về hướng
nam ? nếu không thì mạng sống như ngàn cân treo sợi tóc, tai họa nhanh chóng ập
đến. Những người muốn lấy tánh mệnh của ngài, đoạt lấy y bát chẳng phải toàn bộ
đều là những người tu hành đó sao ? chẳng qua là bệnh đố kị ( ganh ghét ) nặng.
Cũng chẳng lấy làm thắc mắc gì mà trong vô tướng sám hối thì sự sám hối của các
tội như ác nghiệp đố kị là một trong số đó. Phổ Hiền Bồ Tát dạy chúng ta tùy hỷ
công đức, nhổ tận gốc sự ganh ghét từ vô thỉ đến nay. Chúng ta nhìn thấy người
khác có thiện sự, thiện hành, tất cả mọi cái chúng ta đều phải tùy hỷ, hoan hỷ
tán thán như nhau, tương lai họ đắc được công đức lớn bao nhiêu thì chúng ta
cũng có công đức lớn bấy nhiêu.
Thái
Thượng Lão Quân cũng nói rằng : “ nghi mẫn nhi chi hung, lạc nhân chi thiện ” (
ý nghĩa rằng những kẻ xấu ác thường tạo ác mà chuốc lấy tai họa, chúng ta nên
thương xót cho họ, khuyên bảo dẫn dắt họ, cảm hóa họ, khiến cho họ có thể cải
ác hướng thiện, chuyển họa thành phước. Những người lương thiện thường hành thiện
mà được phước báo, chúng ta phải vì họ mà hoan hỷ tán thán, cổ vũ khích lệ họ,
thành tựu họ, khiến cho họ càng có thể tích cực hành thiện, hậu phước vô lượng
! ”
Sự
tu học của đạo trường Bạch Dương càng nên có đủ sự tùy hỷ công đức, 15 điều phật
quy cũng yêu cầu chúng ta tuân tiền đề hậu. Phải biết rằng một vị anh hùng
thành tựu trong tiếng vỗ tay, còn hào kiệt có thể luân lạc ( đọa lạc ) trong sự
miệt thị xem thường. Nếu như chẳng thể nỗ lực hướng dẫn và nâng đỡ hỗ trợ cho
các hậu tiến ( hậu học ), tự mình trở thành xe hư cản đường ( Kỳ đà cản mũi ) ,
như thế chẳng những là sự tổn thất của đạo trường, càng là sự tổn thất của ông
trời !
0 comments :
Post a Comment