Trì
Chay
Chúng
ta sau khi vào đạo, trai giới là điều quan trọng cấp thiết nhất. Bởi vì cái
tánh của tiên thiên, gốc ban đầu vốn dĩ cực thanh, quyết chẳng dung có khí trược
hỗn hợp với nhau, trong thời gian gặp phải có khí trược hỗn tạp trộn lẫn, tự tất
loạn mất bổn chơn. Do vậy mà người tu đạo nhất định cần phải lưu thanh bỏ trược,
mới có thể khôi phục bổn tánh sáng tỏ. Phàm là thuộc ngũ huân tam yếm đều nên
giới trừ đến mức tối đa.
Mùi
hơi của ngũ huân hung hiểm, ăn vào thì nguyên khí của ngũ tạng dễ bị xung tán.
Tam Yếm là những loài cầm thú thuỷ tộc, đều thuộc âm trược, ăn vào dễ làm tổn
thương cái thể thuần dương của con người. Đạo ta nếu đã lấy việc tu luyện thuần
dương làm tông chỉ, càng cần phải tránh âm bảo dương, huống hồ ông trời lấy việc
yêu thương quý trọng sinh mệnh làm đức hạnh đẹp, người tu đạo nên thể hội ý của
ông trời, không thể tham cái bụng miệng mà tuỳ ý sát sanh, dẫn đến tạo ra những
oan khiên oan nghiệt. Đối với những thức ăn như thịt, cá, hoặc hành, tỏi, hẹ …
tuy không thể nhất thời cai hết, cũng nên từ từ mà thực hành, trước hết trì hoa
chay nguyệt chay, lâu dần thành thói quen, sau đó là trì trường chay. Thế nhưng
nếu chẳng nguyện trì chay, hãy hành công lập đức thật nhiều để hồi hướng thay
cho lục súc tiêu oan. Tóm lại là người tu đạo phải lấy sự từ bi làm chính.
Niết
Bàn Kinh có ghi : Ca Diếp bạch Thế Tôn : “ Tại sao Như Lai không dám ăn thịt ?
”
Phật
đáp : “ Thiện nam tử, phàm người ăn thịt, đoạn đại bi chủng, ăn thịt đắc vô lượng
tội, chết đọa ác đạo, thọ vô lượng khổ ”
Cái
gì gọi là thức ăn chay ?
Tất
cả các thức ăn mang tính thực vật, ngoại trừ Ngũ Vị Tân : ( Hành (cách thông) hẹ
(từ thông), tỏi (đại toán), kiệu (lan thông) và hưng cừ, tên khoa học là Allium
fistulosum, là loại gia vị có hình dáng và mùi vị tương tự củ nén không có ở
Trung Quốc và Việt Nam ) ra thì đều gọi là thức ăn chay thật sự.
Loại
trừ sạch những bất tịnh ( những thứ không sạch sẽ ) của tâm, gọi là Trai.
Ngăn
cấm những lỗi lầm sai trái của thân, gọi là Giới. Trai Giới nghĩa là giữ giới để
đoạn tuyệt tất cả những tham dục do các giác quan sản sanh.
Vì
sao ăn chay không được ăn Ngũ Vị Tân ?
Đặc
tính của những thứ nầy nó chứa nhiều tố chất kích thích và mùi vị cay nồng, nếu
ăn nhiều thì thân thể có mùi hôi, nóng nảy và bị kích dục. Do đó, mà trong Kinh
Lăng Nghiêm, quyển 8, Phật dạy:
“
Này A Nan ! Các chúng sinh cầu Thiền định (Samadhi) không nên ăn năm món cay nồng
của thế gian. Vì năm món cay nồng đó nếu ăn chín thì phát dâm, ăn sống thì sinh
sân nóng giận.
Người
nào ăn năm món cay nồng ấy thì dẫu có tài giảng thuyết mười hai bộ kinh, chư
Thiên mười phương đều chê bai hôi thúi và xa lánh. Ngạ quỷ nhìn người ăn mấy
món đó liền kéo đến liếm môi, liếm mép họ, vì thế nên thường ở chung với ma quỷ.
Phước đức của người ăn ngũ tân mỗi ngày một tiêu dần,hằng-lâu
không được lợi-ích. Người ăn rau-cay đó, tu phép Tam-ma-đề, Bồ-tát, Thiên-tiên
và thiện thần trong mười phương không đến ủng hộ người ấy. Đại-lực Ma-vương được
phương-tiện đó, hiện ra thân Phật, đến thuyết-pháp cho người kia, chê-phá cấm-giới,
tán-thán dâm-dục, nóng-giận, si-mê; đến khi mệnh-chung, tự mình người ấy làm
quyến-thuộc của Ma-vương; khi hưởng-thụ phúc ma hết rồi, thì đọa vào ngục
Vô-gián. A-nan, người tu đạo Bồ-đề, phải đoạn-hẳn năm thứ rau-cay; ấy gọi là tiệm-thứ
tu-hành tăng-tiến thứ nhất. ”
Kinh
Phạm Võng, quyển hạ, Phật dạy: “ Là Phật tử thì không được ăn ngũ vị tân, ( năm
loại gia vị tanh nồng ) là hành, hẹ, tỏi, kiệu và hưng cừ. Năm loại này nếu bỏ
vào trong tất cả các thứ thực phẩm thì đều không nên ăn. Nếu cố tình ăn thì Phật
tử này phạm khinh cấu tội.
Sự
làm tổn hại của ngũ huân đối với ngũ tạng
Hành
làm tổn thương thận, thận thuộc thuỷ
Tỏi
làm tổn thương tim, tim thuộc hoả
Hẹ
làm tổn thương gan, gan thuộc mộc
Kiệu
làm tổn thương tì, tì thuộc thổ
Hưng
cừ ( nén ) làm tổn thương phổi, phổi thuộc kim.
Tác
dụng của ngũ hành và ngũ tạng
Ngũ
tạng duy trì thao tác của cơ thể
Ngũ
hành cân bằng âm dương của cơ thể.
Tam
Yếm
Thiên
Yếm ( loài chim trên không ) , ăn vào làm tổn thần
Địa
Yếm ( loài súc vật trên đất ) : ăn vào làm tổn khí
Thuỷ
Yếm ( loài cá trong nước ) : ăn vào làm tổn tinh.
KINH NHẬP LĂNG GIÀ PHẨM THỨ MƯỜI SÁU: NGĂN ĂN THỊT
Ðức
Phật nói rằng:
“ Này
Ðại Tuệ! Quỷ ác La sát là loài thường ăn thịt mà nghe lời nói của ta còn phát từ
tâm, bỏ thịt chẳng ăn, huống là đệ tử của ta tu hành thiện pháp mà được phép ăn
thịt ư! Nếu có người ăn thịt thì phải biết kẻ đó tức là đại oán của chúng sinh,
cắt đứt Thánh chủng của ta.
Này
Ðại Tuệ! Nếu đệ tử của ta nghe lời nói của ta, chẳng quan sát kỹ càng mà ăn thịt
thì phải biết người đó chính là dòng giống Chiên đà la, chẳng phải đệ tử của
ta, ta chẳng phải là thầy của người ấy. Vậy nên, này Ðại Tuệ! Nếu muốn cùng ta
làm quyến thuộc thì tất cả các thứ thịt đều chẳng nên ăn!
Lại
nữa, này Ðại Tuệ! Người ăn thịt thì chúng sinh nghe thấy hơi đều kinh sợ, chạy
trốn tránh xa. Vậy nên Bồ tát tu hạnh như thật vì hóa độ chúng sinh thì chẳng
nên ăn thịt.
Người
tu hành nếu ở thế gian chẳng sinh chán lìa, tham trước nhiều vị: rượu, thịt,
cay, nồng... có được liền ăn ngấu nghiến thì chẳng nên nhận của tín thí ở thế
gian.
Này
Ðại Tuệ! Sau khi ta Niết Bàn, vào đời vị lai, lúc pháp sắp diệt, ở trong pháp của
ta, có người xuất gia, cạo bỏ râu tóc, tự xưng: Ta là Thích tử Sa môn, mặc áo
cà sa của ta mà si dại như đứa trẻ, tự xưng là luật sư mà rơi vào nhị biên, đủ
thứ hư vọng giác quán, loạn tâm, tham trước vị thịt, theo tự tâm kiến nói trong
Tỳ ni nói rằng, được ăn thịt, cũng bài báng ta rằng, các đức Phật Như Lai cho
phép người ăn thịt, cũng nói rằng, nhấn cấm chế mà được phép ăn thịt, cũng bài
báng ta rằng, Như Lai Thế Tôn cũng tự ăn thịt.
Này Ðại Tuệ! Ở trong tất cả Kinh, như
Tượng Dịch, Ương Quật Ma, Niết Bàn, Ðại Vân.v.v.. của ta chẳng cho phép ăn thịt,
cũng chẳng nói, cho thịt vào vị ăn.
Này
Ðại Tuệ! Ta nếu cho phép các đệ tử Thanh Văn lấy thịt làm thức ăn thì nhất định
ta chẳng được miệng thường khen ngợi người tu từ bi làm hạnh như thật, cũng chẳng
khen ngợi người tu hạnh đầu đà trong rừng Thi Ðà, cũng chẳng khen ngợi người tu
hành Ðại thừa trụ ở Ðại thừa, cũng chẳng khen ngợi người chẳng ăn thịt. Ta chẳng
tự ăn, chẳng cho phép người khác ăn. Vậy nên ta khuyên người tu hạnh Bồ tát,
khen ngợi chẳng ăn thịt, khuyên xem chúng nên như con một thì tại sao xướng lên
rằng, ta cho phép ăn thịt. Ta vì đệ tử tu hạnh ba thừa mau được quả nên ngăn chặn
tất cả thịt, chẳng cho phép ăn thì tại sao nói rằng trong Tỳ ni của ta cho phép
người ăn thịt.
Kinh
Đại Bát Niết Bàn
- PHẨM
TỨ TƯỚNG THỨ BẢY
Ca
Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn! Các Tỳ Kheo, Tỳ Kheo ni, Ưu bà tắc,
Ưu bà di, nhơn người khác giúp mà sống. Lúc khất thực, nếu đặng món ăn lộn với
thịt, phải làm cách nào để ăn đúng với pháp thanh tịnh?
Phật
dạy: "Nầy Ca Diếp! Nên lấy nước rửa sạch thịt rồi hãy ăn. Nếu đồ đựng bị thịt
làm dơ, chỉ làm cho không có vị thịt thời cho phép được dùng không tội. Nếu thấy
trong thức ăn có nhiều thịt thời không được nhận. Tất cả thứ thịt đều không được
ăn. Người ăn thịt thời phải tội. ”
Ca
Diếp Bồ Tát bạch Phật: "Duyên cớ gì ngày trước đức Như Lai cho phép hàng Tỳ
Kheo ăn ba thứ tịnh nhục?"
Phật
dạy: "Nầy Ca Diếp! Ba thứ tịnh nhục ấy chỉ là theo việc mà tạm chế
thôi".
Chữ
“tịnh” ở đây có nghĩa là
không
cố ý giết,
không
bảo người khác giết,
không
chấp nhận khi biết người khác vì mình mà giết sinh vật để lấy thịt.
Bao
nhiêu giới cấm của Như Lai chế ra đều có dị ý. Vì dị ý nên cho ăn ba thứ tịnh
nhục. Vì dị ý nên cấm ăn mười thứ thịt. Vì dị ý nên cấm tất cả thứ thịt đều
không được ăn, dầu là thịt của con vật tự chết.
Nầy
Ca Diếp! Từ nay Như Lai cấm các đệ tử không được ăn tất cả thứ thịt.
Nầy
Ca Diếp! Người mà ăn thịt, hoặc đi đứng nằm ngồi chúng sanh nào nghe đến hơi thịt
thời kinh sợ. Ví như người ở gần sư tử, đi đến đâu, mọi người nghe mùi hôi của
sư tử đều kinh sợ. Như người ăn tỏi, không ai dám gần người ấy vì tanh mùi tỏi.
Kẻ ăn thịt cũng vậy, tất cả chúng sanh nghe hơi thịt, thảy đều kinh sợ, nghĩ đến
sự chết, các loài cá trạnh, muôn thú cùng chim chóc, đều chạy tránh xa, đều có
quan niệm rằng người ấy là kẻ hại ta. Vì thế nên Bồ Tát không ăn thịt, vì độ
chúng sanh mà thị hiện ăn thịt. Dầu thị hiện ăn thịt mà thật ra thời không có
ăn.
Nầy
Ca Diếp! Hàng Bồ Tát nầy còn không ăn những thức ăn thanh tịnh, huống lại ăn thịt.
Kính
Thần bái Phật không được sát sanh
Kinh
Nhập Lăng Già - Phẩm Ngăn Ăn Thịt Thứ 16
Rằng
: “ này Ðại Tuệ! Phàm người ăn thịt thì chư thiên xa lìa, huống gì là Thánh
nhân! ”
Do vậy
mà kính thần bái phật không được sát sanh.
Tại
sao thiên thần không ăn ? Bởi thiên thần ở cung điện bằng bảy báu, ăn toàn thức
ăn thượng diệu của cõi trời, khi nghĩ đến ăn liền có ăn, đầy đủ dư dả. Họ đâu
có dại mà bỏ những thức ăn thượng diệu, xuống cõi trần ăn những thức ăn tanh
hôi, máu mủ, nhơ nhớp của người đời dâng cúng, lại thêm tốn công đi nữa. Cũng
như các bạn thôi, các bạn có chịu bỏ cơm và đi ăn thức ăn của loài bọ không?
Thiên
thần cũng y như vậy không hai không khác. Thiên thần không đến thọ dụng, đương
nhiên mình cũng không có phước, mà còn bị tội sát sinh nữa, quả thật mất cả chì
lẫn chài ! Qua đây chúng ta biết được sát sinh để cúng bái thần thánh là việc
làm vô ích, không có công lại có tội.
Vô
tình nếu các bạn dùng rượu thịt cúng tế những vị thần nhân từ, có công với dân,
với nước, đây là hành vi đại bất kính, chắc chắn sở cầu của bạn đã không được
toại nguyện, còn mang tội sát sanh.
Trên
đời này cũng có người sát sinh cúng bái quỷ thần được những chuyện như ý nguyện.
Nhưng chúng ta phải biết những quỷ thần này cũng đang phạm tội; tham hưởng thụ,
nhận đồ cúng của bạn mà không giúp, lần sau bạn đâu có cúng nữa, vậy lấy gì hưởng
thụ ? Cho nên y bắt buộc phải dùng mọi mưu mẹo, mánh khóe để giúp bạn; đây là
hành vi cực xấu vừa phạm giới sát vừa phạm tội trộm cắp, ngày sau nhất định phải
trả ác báo này. Còn đối với bạn, ngoài tội sát ra, bạn còn mắc tội lỗi nữa là
đòi hỏi quá đáng, cho ăn hối lộ góp phần làm cho người khác mang tội; quả ác của
bạn đáng lẽ chưa đủ thời gian chín, nhưng do cho ăn hối lộ, ép nó phải chín sớm.
Bạn biết, “trái chín non không chua cũng chát”, vô tình bạn tiêu hủy phước của
mình. Qua đây chúng ta thấy, sát sinh cúng bái quỷ thần, cả thần và ta đều bị hại.
Trì
Chay Chớ Ăn Trứng
(
Văn từ huấn : Lời Cảnh Tỉnh của Táo Quân )
Dân
Quốc năm thứ 79 ( 1990 ) , Tuế Thứ Canh Ngọ, ngày 26 tháng 7
Ăn
chay trứng không nên, thời nay phải thay đổi, trì chay chớ ăn trứng, ăn trứng
phải cải trừ
Trì
chay chớ ăn trứng, miễn được Linh Quang ám ( mờ tối ) , người đời chẳng biết
sám, tưởng rằng trứng được ăn.
Nhất
Quán sơ bàn đạo, ăn chay vẫn chưa hợp, ăn chay nay rực rỡ ( phát triển ), nào
ngờ vẫn ăn trứng.
Nhất
thời nhất cơ bàn, có duyên thì đọc thấy, khuyên người có ăn trứng, phải có thể
thanh đạm
Nhẹ,
trược có phân biện, Tam Tào khả đối án, ăn chay chớ bán trứng, miễn phán tội sơ
suất
Trì
chay nếu ăn trứng, linh quang hiện hôn ám ( mờ tối ), chẳng tin tự mà xem, phải
chăng ánh sáng lạn
Huấn
văn được truyền xem, chẳng tin lại ăn trứng, công tội ta thẩm phán, chúng sanh
chớ coi thường ( sao lãng )
Nếu
muốn chứng bỉ ngạn ( bờ bên kia ), khuyên người chớ ăn trứng, chúng sanh chớ
nguỵ biện, ta ai đoán đoán thử,
Mỗi
ngày trong nhà bàn, sanh tử ta quyền phán, người tin chớ ăn trứng, chẳng tin
chóng mắt xem
Lại
nói chúng hiền thục ( các cô chị ), bán trứng công đức trừ, chẳng tin Táo Quân
ta, bán trứng không phước lộc
Từ
xưa tiên phật dặn, trứng mặn ( là món mặn ) không được ăn, trì chay nói ăn
chay, sao có thể ăn trứng ?
Xem
trứng là đồ chay, chúng sanh hồ đồ quá, chẳng biết trứng món mặn, lại còn hàm độc
tố
Bạch
Dương ăn ngỗ nghịch ( trái lại, chống lại ), tội lỗi vẫn tự xây, Táo Quân từ bi
dặn, mong chúng sanh đọc rõ
Huấn
văn chớ có nghi, lời Huấn Táo Quân phê, tuỳ thời cơ thích hợp, thời nay phải sửa
đổi
Trước
kia vì thân thể, thời nay vì linh thể, lúc này khác xưa rồi, ăn trứng đã không
thể
Tu
hành mượn thân giả, thời trứng bất đắc dĩ, thời nay món chay đầy, sao có thể lại
nhắc
Chúng
Hiền chớ mãi nghi, lời Huấn Táo Quân viết, ăn trứng không thể được, Táo Quân
không cho phép
Trì
chay chớ ăn trứng, phải dần dần sửa bỏ, nếu vẫn chẳng tin ta, chớ đợi hối chẳng
kịp
Ăn
chay trở ( ngại ) tu hành, thời nay không phù hợp, không tin Táo Quân ta, đều
tuỳ đồ Nhất Quán ( đồ : đồ nhi )
Thiên
Tào tiếp dụ chỉ, liên quan trứng chẳng trì, bán trứng mất công đức, Lí Thiên quả
vị trừ
Tiền
Bối Nhất Quán ăn, tội lỗi vẫn tự xây, Hậu Học học ăn theo, ( cho rằng ) ăn trứng
không nghịch ngỗ
Chớ
nói rằng mớm con ( cho con bú ) , dinh dưỡng ăn bồi bổ, ăn trứng hàm âm độc, trở
( ngại ) con đường tu hành
Tuỳ
thời cơ mà dặn, tu hành chớ ăn trứng, phụng khuyên Nhất Quán đồ, chớ lại còn ăn
trứng
Linh
khí chẳng đủ thanh, Lí Thiên sao dừng bước ? ( làm sao mà trụ lại ? ), Lí Thiên
đất thanh tịnh, ăn trứng nào chỗ đứng ?
Hồng
Dương Thích Ca dặn, ăn trứng phạm ngỗ nghịch, Thế Tôn có dặn dò, ăn trứng là
Nghịch đồ.
Vào
thời kì hồng dương, tu hành bao gian khổ, luôn cả trứng chẳng ăn, Niết Bàn quy
tịnh độ
Nhìn
ngược Bạch Dương thời, lúc trì chay tiện lợi, nào ngờ lại dùng trứng, tu hành
chẳng phù hợp.
Dịch
nghĩa :
Trì
chay nếu dùng trứng thì linh quang sẽ tăm tối, không sáng lạng, nếu không tin
thì hãy tự mình quan sát xem, điểm linh quang đó có thật sự sáng lạng hay không
?
Huấn
văn có thể truyền cho mọi người xem, nếu không tin cứ việc ăn trứng, công tội
do ta thẩm phán, chúng sanh chớ có chậm trễ, nếu muốn đăng bến bờ giải thoát
bên kia, phụng khuyên người đời chớ ăn trứng. Chúng sanh chớ nên cưỡng cầu làm
theo ý của cá nhân mình, ta đều nhìn thấy thật rõ ràng, mỗi ngày những việc bàn
tại gia, sinh kế đều do ta trưởng quản, người tin tưởng thì không nên dùng trứng,
nếu không tin thì hãy cứ chờ mà xem.
Trì
chay không nên ăn trứng, để tránh linh quang bị tối tăm u mờ, người đời do
không hiểu lại không biết sám hối, tưởng rằng trứng có thể dùng được. Nhất Quán
Đạo khi vào thời kì sơ khởi bàn đạo, thức ăn chay rất đơn sơ đạm bạc, thức ăn
chay dần dần xuất hiện trên mỗi bữa ăn, và trứng cũng được mọi người sử dụng
trong việc chế biến món ăn. Một thời một thời thay đổi, những người hữu duyên
có thể đọc được, phụng khuyên người đời nếu có ăn trứng, nay hãy thay đổi cách
thức này, người ăn chay nên có thể ăn thanh đạm, thanh trược đều phân phán, Tam
Tào có thể đối án, thức ăn chay không nên bán trứng để tránh khỏi bị tội.
Lại
nói với các vị hiền thục, bán trứng công đức sẽ bị tiêu trừ, nếu không tin lời
của Táo Quân ta đây nói, người bán trứng thì phước, lộc sẽ không còn.
Từ
ngàn xưa Tiên Phật đã có nói : trứng vốn không thể ăn được, người trì chay cho
rằng trứng có thể dùng, nên đã tự ăn trứng, cho đó là đồ chay; chúng sanh quá ư
hồ đồ, chẳng biết rằng khi ăn trứng trong trứng có chứa nhiều độc tố.
Bạch
Dương tu sĩ nếu nghịch lại, cố chấp vẫn cứ ăn, thì tội lỗi do tự mình chuốc lấy.
Táo Quân từ bi dặn dò, hãy nhanh chóng đọc cho kĩ càng và làm lại từ đầu, sửa lỗi
làm con người mới.
Lúc
này phải mau thay đổi cách ăn uống của mình. Những lời huấn văn không nên nghi
ngờ, những lời đây đều do Táo Quân phê huấn, thời nay đã thay đổi, hãy mau mau
thức tỉnh. Xưa kia ta vì thân thể, nay là vì linh thể, lúc này chẳng như xưa nữa,
ăn trứng đã chẳng được chấp thuận; người tu hành mượn giả thể để tu tập, trước
kia ăn trứng là việc bất đắc dĩ, hiện nay những thức ăn chay đã không còn thiếu
thốn như xưa nữa, chúng Hiền nên cẩn ghi những lời Táo Quân dạy, không được
nghi ngờ, dùng trứng là không chấp nhận được, Táo Quân ta đây không cho phép.
Việc
ăn trứng có thể sửa đổi, phải theo thời thế mà thay đổi, người tu hành không
nên ăn trứng, phụng khuyên Nhất Quán Hiền Đồ không nên tiếp tục dùng trứng nữa.
Linh
khí nếu không đầy đủ sự thanh tịnh, thì làm sao trụ lại Lí Thiên. Lý Thiên là mảnh
đất phật thanh tịnh, người ăn trứng không có chỗ đứng ở nơi đó.
Thích
Ca Mâu Ni Phật vào thời Hồng Dương Kì có nói rằng : ăn trứng là nghịch hành
thiên lí, người ăn trứng bị gọi là nghịch đồ.
Vào
Thời kì Hồng Dương, người tu hành rất gian khổ, nhưng luôn cả trứng họ cũng
không ăn, sau khi niết bàn thì đều quy về tịnh độ; mà ngược lại, vào thời kì Bạch
Dương, là lúc hết sức phương tiện, việc trì chay quá tiện lợi mà lại dùng trứng,
tu hành như vậy thật sự không hợp với đạo lí chút nào.
Trì
chay không nên dùng trứng, mà hãy từ từ sửa bỏ, nếu như không tin lời của Táo
Quân, thì sau này chớ có hối hận. Người tu hành nếu ăn trứng sẽ bị nhiều trở ngại.
Hiện thời đã không phù hợp, nếu không tin lời của Táo Quân, thì tuỳ các Hiền Sĩ
của Nhất Quán vậy. Thiên Tào đều có ý chỉ, sẽ có nơi giam những người có liên
quan đến việc ăn trứng. Người bán trứng công đức sẽ không còn, quả vị nơi Lí
Thiên sẽ bị loại trừ.
Những
vị Tiền Bối của Nhất Quán Đạo vẫn còn dùng trứng thì đó là tội mà họ tự chuốc lấy,
còn các hậu học hành theo các Tiền Hiền đều ăn như vậy thì vẫn có tội như thường.
Đừng nên cho rằng dinh dưỡng không đủ mà phải bồi bổ thêm, hãy biết rằng trứng
có âm độc, nó là sự cản trở chúng ta trên bước đường tu đạo.
0 comments :
Post a Comment