Ý
nghĩa của Nghi thức cầu đạo
7.
Thỉnh mời Điểm Truyền Sư truyền hợp đồng
Tam
bảo là Quan, Quyết, Ấn. Trước tiên truyền hợp đồng cho biết lạy như thế nào và
hợp đồng tâm với mọi người mới có thể thanh tịnh. Trong quá trình truyền đạo lại
là truyền cho hợp đồng trước, sau đó điểm mở huyền quan, cuối cùng truyền cho
khẩu quyết. Từ xưa đến nay việc điểm mở huyền quan là không thay đổi, đều là
ngôn ngữ đạo đoạn ( ý nghĩa thâm ảo vi diệu chẳng cách nào dùng ngôn từ biểu đạt
được ), còn khẩu quyết và hợp đồng là tùy nhân duyên của thời đại và Tổ Sư ứng
vận mà khác nhau.
Hợp đồng = hợp với thiên tâm, đồng với Thánh đức. Thiên tâm là toàn thủy toàn chung ( có sự khởi đầu tốt đẹp và sự kết thúc viên mãn, có đầu có đuôi ) ( chính là tâm của thượng đế. Thượng Đế là đấng toàn năng toàn thủy toàn chung )
Tí hợi
: một đầu một đuôi trong 12 địa chi, toàn thủy toàn chung. Tu hành là sự đầu nhập
( tâm ý chuyên chú ) lâu dài của toàn sinh mệnh, thậm chí là từ quá khứ đến vị
lai. Hợp đồng là một lời nói, một hành động đều phải phù hợp với chân lí của tự
tánh. Chỉ cần lời nói hành động có thể hòa hợp với chân lý tự tánh thì có thể hợp
với Lão Mẫu, đồng với Lão Mẫu, và hợp với Tiên Phật, đồng với Tiên Phật, hợp với
chúng sanh, đồng với chúng sanh. Đấy chỉ là phần cuối mà thôi, hòa hợp với chân
lý tự tánh mới là gốc.
Tí (子) hợi(亥) hợp
thành Hài (孩) –
đứa bé, trở về xích tử chi tâm ( tâm của một đứa trẻ sơ sinh ). Bạn muốn trở về
gặp Thượng Đế thì tay phải ôm lấy một đứa bé không biết khóc. Người sinh ra nhục
thể của chúng ta là cha mẹ. Người sinh ra linh tánh của chúng ta là Dục Hóa
Thánh Mẫu ( Vô Cực Lão Mẫu, Minh Minh Thượng Đế ).
Hợp
đồng cũng là dùng để lễ bái. Di Lặc Chân Kinh rằng : “ Yếu tưởng thành Phật cần
lễ bái ” ( nếu muốn thành Phật thì phải siêng năng lễ bái ). Lễ bái có thể hàng
phục cái tâm vọng tưởng của chúng ta. Lễ là tôn kính tự tánh, lễ kính chư phật.
Bởi vì người người đều là phật. do vậy trước hết phải tôn kính tự tánh phật của
bản thân chúng ta, như thế mới có thể hiễu rõ chúng sanh đều có trí tuệ đức tướng
của Như Lai, tất cả đều là bình đẳng. Phật là vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Bái là làm khuất phục vô minh, làm khuất phục sự vô minh của bản thân.
8.
Mười điều nguyện lớn đã lập khi cầu đạo là : sau khi đắc đạo thì “ thành tâm bảo
thủ, thật tâm sám hối ( thật tâm tu luyện ). Nếu có hư tâm giả ý, thối súc bất
tiền, khi sư diệt tổ, miễu thị tiền nhân, bất tuân phật quy, tiết lộ thiên cơ,
nặc đạo bất hiện, bất lượng lực nhi vi giả ( bất thành tâm tu luyện giả ) nguyện
thụ thiên nhân cộng giám. ”
Nếu
chẳng có lập nguyện, cho dù tay cầm bạc tỉ cũng chẳng thể được Minh Sư chỉ điểm
cho con đường sáng tỏ rõ ràng. Đấy chẳng phải là Thiên Đạo mới có ; chẳng hạn
như các tín đồ phật giáo khi trở thành Tì kheo, Tì kheo ni phải thọ cụ túc giới
cũng phát tứ đại hoằng nguyện rằng : “ Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ, phiền
não vô tận thệ nguyện đoạn, pháp môn vô tận thệ nguyện học, phật đạo vô thượng
thệ nguyện thành ” . Khi Đạt Ma Sơ Tổ độ Huệ Khả nhị tổ, nhị tổ lập nguyện rằng
: “ Đệ tử nếu vẫn có hai ý, khi sư diệt
tổ thì vĩnh đọa địa ngục, chẳng được siêu sanh ”. Khi Tổng Thống Mĩ nhậm chức cần
phải một tay ấn lên Kinh Thánh, tuyên thệ với Thượng Đế và nhân dân, quyết tâm
tuân thủ hiến pháp, phục vụ quốc gia. Nếu không, nguyện chịu sự trừng phạt khắc
khe. Khi Tổng thống và quan chức Đài Loan nhậm chức cũng đều phải tuyên thệ
tuân thủ pháp luật. dốc hết sức trung thành, kiên giữ cương vị ; nếu đi ngược lại
với lời thề, nguyện chịu sự chế tài nghiêm khắc nhất. Còn nguyện mà chúng ta đã
lập đều là những nguyện tốt, lại là nguyện của lương tâm. Việc lập nguyện này
cũng có ý nghĩa quan trọng chính là khiến chúng ta phát tâm lớn, bởi vì cầu đạo
là “ Di Lặc thọ kí ” : trên kinh Pháp Hoa, Thế Tôn vì Tứ đại tôn giả và 500 đệ
tử thọ kí, dự báo tương lai nhất định thành phật. Điều kiện : chứng đắc vô sanh
pháp nhẫn ( an nhẫn ) an vị ở bên trong chơn tâm tự tánh bất sanh bất diệt. Những
đệ tử phát tâm lớn ( tâm, nguyện bồ tát ).
9.
Điểm huyền quan : Trước khi điểm huyền quan nhất định cần phải có sự lập nguyện
chơn thật. Điểm huyền quan là ở chơn truyền chơn thụ của Minh Sư, thế nhưng vẫn
đòi hỏi sự thực hành thật sự của chúng ta, biến thành có sức mạnh của Phật, có
sức mạnh của chúng sanh. Có phật lực, có tự lực mới là viên mãn. Điểm huyền
quan chỉ điểm thế nào đây ?
Khi
làm nghi thức điểm huyền quan phải có một khoảng trầm mặc, im lặng không lời.
Khoảng im lặng này chẳng phải là cố ý, mà là cách thức vô cùng ảo diệu hoàn hảo
nằm trong nghi thức Nhất Quán của Sư Tôn Sư Mẫu truyền đạo, sự chỉ dẫn chẳng có
lời nói, trống rỗng.
Khi
người cầu đạo quỳ xuống bình tâm tĩnh khí nhìn lên ngọn phật đèn ( theo khẩu lệnh
của Thượng chấp lễ ) ; quỳ nghe lễ chúc lúc này là dùng sự tiếp dẫn của âm
thanh lời nói, nhưng có lúc người cầu đạo tâm tán loạn không nhất định chuyên
tâm nhìn phật đèn ( hoặc nghe chẳng hiểu ) thì sự tĩnh mặc rất lâu lúc ấy khiến
cho người cầu đạo mới hoàn thành được yêu cầu tối thiểu nhất, “ bình tâm tĩnh
khí mắt nhìn ngọn phật đèn ” lúc này tự nhiên toàn bộ những cửa lớn của lục căn
bất tri bất giác ở trên đèn Mẫu ( từ
chuyên tâm biến thành nhất tâm ) , cái chơn thật vào cái sát na ( khoảng thời
gian chớp nhoáng rất ngắn ngủi ) ấy thật sự thực hiện ra ngoài ( lục căn đều bị
thâu nhiếp trói buộc ở một ngọn đèn sáng ). Minh Sư cầm truyền nhang ( cây
nhang điểm đạo ) , thực hiện động tác dùng truyền hương tiếp dẫn điểm đạo và khẩu
tuyên rằng :
Càn
: 當前即是真陽關,真水真火已俱全,余今指你一條路。 (心念觀照)燈光照耀在眼前,二目瞳神來發現,洒洒沱沱大路坦,西天雖遠頃刻到,混含長生不老天,今得此一著,跳出苦海淵,飛身來上岸,即得登雲船。
Đương
tiền tức thị chơn dương quan, chơn thủy chơn hỏa dĩ câu toàn, dư kim chỉ nễ nhất
điều lộ. ( Tâm niệm quán chiếu ) . Đăng quang chiếu diệu tại nhãn tiền, nhị mục
đồng thần lai phát hiện, sái sái đà đà đại lộ thản, tây thiên tuy viễn khoảnh
khắc đáo, hỗn hàm trường sanh bất lão thiên, kim đắc thử nhất trước, khiêu suất
khổ hải uyên, phi thân lai thượng ngạn, tức đắc đăng vân thuyền.
Từ của
Lễ Chúc nói rằng đương tiền tức thị chơn dương quang. Chơn dương quang ở trước
mắt chính là con đường lớn quang minh sáng ngời thông đến Lí Thiên. Thiên mệnh
minh sư mượn một chỉ của ánh sáng đèn Vô Cực, hãy dùng đồng tử của hai mắt để
phát hiện con đường lớn thông thiên tự tại giải thoát hiện ở trước mắt, và chẳng
có con đường nào khác có thể thông đến Lí Thiên, cho nên Thiên Ẩn Thiền Sư nói
rằng : :「道在目前無別法 Đạo
tại mục tiền vô biệt pháp 」(
Đạo ngay trước mắt chẳng có biệt pháp )
Vào
lúc mắt nhìn ngọn phật đèn là bổn lai diện mục chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác,
vô nhân vô ngã ( chẳng có người, chẳng có ta ). Lúc này là dương quan đại đạo
thông đến lí thiên chơn thật bất biến. Chơn dương quan tức là huyền quan khiếu
là cánh cửa ra vào của tự tánh. Huyền quan tức là tự tánh của người ở bên trong
cơ thể con người. Tánh là hợp thể của hai khí âm dương. Mọi người đều có tánh,
cho nên mới nói là chơn thủy chơn hỏa đã đầy đủ. Thủy hỏa tức hai khí có thể
trung hòa thành một trở thành cái đạo trung hòa. Do tánh rơi vào bên trong cơ
thể người của hậu thiên, do việc đi ngược lại với lẽ thường ( quy luật, đạo lý
chung ) của khí số nhân dục mà bị khóa kín chẳng cách nào trở về trời, nay dùng
một chỉ đã mở khóa ra ! Chỉ cần bạn tu cái hạnh đi ngược lại dục vọng tham muốn
của con người, tức có thể thuận hành chẳng có trở ngại, nhìn thấy sự quang minh
sáng ngời soi sáng trước mắt. Ánh sáng này chẳng phải là nhục nhãn có thể nhìn
thấy được. Cần phải dùng đồng tử của hai mắt mới có thể nhìn thấy.
Chơn
thủy chơn hỏa đã đầy đủ nói rõ rằng chơn trí tuệ, chơn bổn tâm, chơn bổn tánh
đã đầy đủ, vốn tự có đầy đủ, chẳng cần phải cầu ở bên ngoài, chẳng hạn như muốn
đi ở ngồi nằm, ăn uống, đại tiểu tiện đều tự mình, chẳng cần nhờ người khác.
Sau đó Điểm Truyền Sư mượn ánh sáng đèn Vô Cực thắp sáng sự quang minh bên
trong của chúng sanh. Đấy là một ngọn tâm đăng quang minh xán lạn tròn trịa
chói lọi sáng mãi bất diệt, chính là con đường lớn huyền quan sáng ngời, đấy là
sự điểm truyền mà Chư Phật Bồ tát cùng hộ trì, với “ nên không có chỗ trụ mà
sanh tâm ấy ” đạo lý là như nhau ( vẽ một cái vòng tròn trước mắt đại biểu cho
sự khế nhập chơn không, đấy là “ không có chỗ trụ ”, lại điểm một điểm, đại biểu
cho sự hiển lộ đức hạnh thiện mĩ, đấy là “ mà sanh tâm ấy ”
Ánh
sáng của đèn soi sáng trước mắt chúng ta. Phật đèn đại biểu cho bổn tâm tự tánh
của chúng ta ( ý là muốn khiến chung ta hồi quang phản chiếu, chiếu soi bổn lai
diện mục ), cho nên lúc này hai mắt đối diện với ánh sáng đèn, tâm là đèn, đèn
là tâm, tâm đèn nhất thể vật ngã lưỡng vọng ( quên cả vật và ta ) , thể của nội
tại là vượt xa hình thể ! mà nhìn thấy ánh sáng quang minh ở trước mắt.
Nếu
có thể nhìn thấy con đường lớn thẳng bằng phẳng vô tư lự là nguyên thể nội
thánh của bạn đã dưỡng dục trưởng thành, cho nên Tây thiên tuy xa mà trong một
khoảnh khắc cực ngắn thì đến.
Hỗn
hàm trường sanh bất lão thiên là nói âm dương hai khí hỗn tạp dung hợp thành
cái khí của trung đạo, tức thành cái đạo sinh sôi nảy nở không ngừng. Thể của đạo
này hoặc gọi là mạt hậu nhất trước. Nay bạn được pháp này thì có thể nhảy ra khỏi
vực thẳm biển khổ mà phi thân đạt đến bến bờ bên kia cưỡi mây về trời. Một chỉ
của Điểm truyền sư là dẫn chỉ kiến nguyệt ( dùng ngón tay chỉ dẫn cho nhìn thấy
mặt trăng ) , đem lục căn nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, ý toàn bộ vẽ vào vòng
tròn vô cực, lại điểm tuệ mục bảo địa chính giữa (中央慧目寶地) .
Đấy tức là lục căn trở lại bổn thể vô cực thanh tịnh vô nhiễm. Đắc được thiên mệnh
chơn truyền chơn thật bất hư của Sư Tôn nhất định có thể siêu sanh liễu tử, rời
tất cả mọi thứ khổ, là đốn pháp tối thượng thượng thừa minh tâm kiến tánh.
(
Văn tự nói rõ về việc điểm đạo ) : Nhất chỉ trung ương hội, vạn bát đắc siêu
nhiên ( điểm rõ ).
Khi
một chỉ của Điểm truyền sư mở ra cái khóa của huyền quan thì âm dương nhị số tiếp
xúc nhau mà tuần hoàn vô tận, cộng thêm trung hòa thì hợp hội ở trung ương (
ngay chính giữa ) ngưng thành thể của đạo. Sau khi Thánh thể đã dưỡng dục
thành, vào lúc tam thiên đại thiên thế giới kết thúc thành hỗn độn, chẳng những
có thể siêu nhiên ( siêu thoát ) vượt qua cái nỗi khổ của vạn bát niên, vả lại
có thể siêu sanh liễu tử rời tất cả mọi thứ khổ và có sự tiêu dao của 10800
năm.
Khôn
: Nhị mục diệu hồi quang, nhất điểm chơn thái dương, nhãn tiền quán tức thị,
đăng hạ khán huy hoàng, giá thị chơn minh lộ ( tâm niệm quán chiếu ) , liễu kết
hoàn cố hương, nễ kim đắc nhất chỉ, phiêu phiêu tại thiên đường, vô hữu sinh
hòa tử, chung nhật luyện thần quang.
二目耀迴光,一點真太陽,眼前觀即是,燈下看輝煌,這是真明路。(心念觀照)了結還故鄉,你今得一指,飄飄在天堂,無有生和死,終日煉神光。
( Tạm
dịch : hai mắt soi sáng ngược, một điểm mặt trời thật, trước mắt quán ( nhìn )
tức thấy, đấy là đường tỏ thật ( tâm niệm quán chiếu ) , liễu kết về cố hương,
nay con được một chỉ, phiêu phiêu nơi thiên đường, chẳng có sanh và tử, cả ngày
luyện thần quang ).
(文字訴說點道)林中受一點,知主保無恙。(明點)
(
Văn tự nói rõ về việc điểm đạo ) : Lâm trung thụ nhất điểm, tri chủ bảo vô dạng
( điểm rõ )
( Tạm
dịch : trong rừng nhận một điểm, biết chủ bảo bình an. )
Ý ở
đây là hai mắt phải hồi quang, là yếu lĩnh dạy người tu đạo phản quán tự tánh,
dùng đồng tử của hai mắt nhìn về phía trước. Phía trước của hai mắt có thể nhìn
thấy tượng của tự tánh. Trong tượng tánh có thể nhìn thấy một ngôi sao sáng rõ
tức là một điểm chơn thái dương. Nhưng một điểm chơn thái dương rốt cuộc là như
thế nào ? trước mắt quán ( nhìn ) tức thấy. Cái mà nhìn thấy được giống như ánh
sáng huy hoàng của đèn Lưỡng Nghi. Đấy là pháp kiến tánh cũng là con đường tỏ
rõ chơn thật để thành đạo trở về cố hương. Người tu đạo phải kiến tánh rõ đạo mới
có thể liễu kiếp trở về cố hương.
Nễ
kim đắc nhất chỉ, phiêu phiêu tại thiên đường, vô hữu sinh hòa tử, chung nhật
luyện thần quang.
你今得一指,飄飄在天堂,無有生和死,終日煉神光。
Phần
trước nói “ đắc nhất trước ” là thiên đạo của hỗn hàm trường sanh bất lão, tức
là thể của Nội Thánh. Ở đây nói đắc một chỉ là nói sau một chỉ của Minh Sư. Hai
khí bèn phiêu phiêu nơi thiên đường vận chuyển. Thiên đường này chẳng phải là
chỉ thiên đường của thiên đạo, mà là chỉ bên trong thể của Nội Thánh. Lúc này
là sự mới hình thành của tánh, vẫn cần phải tiếp tục làm đầy và dưỡng dục thì
ánh sáng của tánh mới có thể quang đại ( hiện ra to lớn ). Cho nên “ chung nhật
luyện thần quang ” ( cả ngày luyện thần quang ) tức là cái công phu không ngừng
nỗ lực, vĩnh viễn không mệt mỏi sao lãng biếng nhác.
林中受一點,知主保無恙。Lâm
trung thụ nhất điểm, tri chủ bảo vô dạng :
là nói rõ ý của “ tử trúc lâm trung quán tự tại ”, cái ý của trung đạo
mà Minh Sư đã chỉ thị. Có cái trung đạo này ở trong tâm, biết chính giữa là chủ
của thân thể. Chấp giữ trung đạo mới có thể bảo tồn cái tánh của trung đạo bình
an chẳng bệnh tật tai họa, cuối cùng thì trở về cố hương.
Lúc
này nhất tâm thanh tịnh, tâm bình khí hòa chẳng có người chẳng có ta, chẳng
nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, vọng niệm ngưng diệt. Kim Cang Kinh rằng : “ nên
không có chỗ trụ ” tức là cái thời khắc hiện tại ngay trước mắt này ngay lập tức
ngưng niệm dứt tưởng, ngay lập tức thể ngộ. Ngưng niệm dứt tưởng là then chốt của
sự khai ngộ. Đàn Kinh rằng : “ hễ lọt vào suy lường thì chẳng dùng được. Người
kiến tánh vừa nghe phải liền thấy. ”
Cho
nên nói : 「當前
đương tiền」(
ngay trước mắt ) chính là dương quan đại đạo thông đến Lí Thiên.
Chơn
thủy chơn hỏa bên trong bổn tánh của mọi người tức là chơn trí tuệ, chơn bổn
tâm đã có đầy đủ, ngay lập tức thể ngộ Như Lai ngay lúc ấy.
Sự
Tôn Sư Mẫu bây giờ chỉ điểm cho chúng ta một con đường siêu sanh liễu tử thông
đến Vô Cực Lí Thiên.
Chú
ý nhìn ánh sáng của ngọn đèn Mẫu Vô Cực soi sáng ngay trước mắt chúng ta. Trước
khi mắt người vẫn chưa động, Phật đèn đại biểu cho bổn tâm tự tánh của chúng ta
( ý nghĩa là muốn khiến chúng ta hồi quang phản chiếu, soi thấy bổn lai diện mục
) , cho nên lúc này hai mắt và ánh sáng đèn đối diện nhau, tâm là đèn, đèn là
tâm, tâm đèn một thể, vật ngã lưỡng vọng, do đồng tử của hai mắt ( chơn chủ tể
- vị chủ thể có khả năng chi phối sự vật ) phát hiện con đường thông thiên tự tại
siêu thoát ( con đường lớn kim tuyến quang minh bằng phẳng thản nhiên không có
trở ngại, trực tiếp trở về Lý Thiên ) .
Vào
lúc người cầu đạo mắt nhìn lên ngọn phật đèn thì Điểm Truyền Sư dùng ngón tay
chính giữa chỉ hướng huyền quan, mượn ánh sáng của Vô Cực điểm phá “ khiếu sanh
tử ” của chúng ta, trực chỉ quy căn nhận mẫu, thắp sáng ngọn tâm đăng vĩnh hằng.
Lúc này, ánh sáng đèn phản chiếu tự thân, thì ra mỗi một người chúng ta đều có
một ngọn tâm đăng vô tận ( ngọn đèn sáng ngày đêm chẳng tắt ), có ngọn tâm đăng
này nhưng lại là thường ngày dùng mà chẳng biết cái dụng của nó, mê muội mất
cái chơn mà theo đuổi cái hư vọng. Lúc này, thiên mệnh minh sư của Tam Tào dùng
truyền hương từ đèn Mẫu thắp dẫn lửa đèn chỉ hướng đến người cầu đạo mà niệm rằng
: :「余今指你一條路」“ dư
kim chỉ nễ nhất điều lộ ” ( nay chỉ cho con một con đường ) , chỉ ra rằng chúng
ta là từ một con đường khởi nguồn từ Vô Cực mà đến, là phân linh của Lão Mẫu, từ
Lí Thiên mà đến, nay Minh Sư từ đèn Mẫu dẫn xuống một đường kim tuyến, điểm mở
ra cánh cửa sinh tử, mượn ánh sáng đèn Vô Cực để thắp sáng tâm đăng của tự
tánh, lương tâm bổn tánh.
Chúng
ta có ngọn tâm đăng vô tận này mới có thể tìm thấy vị chơn chủ tể của chúng ta.
Sau đó Minh Sư điểm truyền cho người cầu đạo từng người từng người một. Khi nhận
một chỉ của Minh Sư, người cầu đạo khế nhập trực hạ vô tâm, đốn ngộ bổn lai. Đấy
là pháp tối thượng thừa, cũng là đốn pháp cứu cánh rốt ráo viên mãn nhất. Điểm
truyền sư tuyên nói rằng : “ nhất chỉ trung ương hội, vạn bát đắc siêu nhiên ”.
Sư Tôn từ bi nói rằng : :「靜氣平心田一點指妙玄, 當前真陽關,混含不老天,觸意即邪偏,落入第二見,生死轉,枉費明師心法傳」“ tịnh
khí bình tâm điền, nhất điểm chỉ diệu huyền, đương tiền chơn dương quan, hỗn
hàm bất lão thiên, xúc ý tức tà thiên, lạc nhập đệ nhị kiến, sanh tử chuyển, uổng
phí Minh Sư tâm pháp truyền ”, cho nên Minh Sư dặn dò rằng : “ cả ngày luyện thần
quang ”, nghĩa là muốn chúng ta trói buộc lục căn, đem nhãn nhĩ tị thiệt thân ý
hoàn trả lại về bổn thể vô cực thanh tịnh vô nhiễm. Sau này khởi tâm động niệm,
đi ở ngồi nằm lấy lương tâm làm chủ, không dựa vào thức thần dụng sự nữa. Ở tất
cả mọi nơi đều quán chiếu tự tánh, tinh tiến tu trì, tri hành hợp nhất, thể dụng
như một, trí tuệ tất nhiên khai thông, bổn tánh đại phóng quang minh bộc lộ từ
bi hỷ xả. Ngay lúc ấy bạn chính là Bồ Tát sống, là Phật sống. ( Siêu nhiên đăng
phật địa ) cho nên mới nói vạn bát đắc siêu nhiên : “ 10800 năm liên hoa bang (
thế giới tịnh độ ), 10 vạn 8000 dặm vĩnh viễn ( vô số lượng ) ”
10.
Truyền khẩu quyết : Truyền cho hợp đồng trước, rồi điểm huyền quan, sau đó Minh
Sư chỉ thụ cho thông thiên chú.
Thượng
chấp lễ hô : mời Điểm Truyền Sư truyền khẩu quyết. Vì sao truyền khẩu quyết vậy
? đem những lí luận mênh mông vô số của thiên kinh vạn điển cô đọng thành khẩu
quyết : quyết có nghĩa là đem cái phức tạp khó khăn chuyển biến thành đơn giản
dễ dàng, khiến cho thiên kinh vạn điển quy về một câu, từ ngũ tự ( 5 từ ) hóa
thành vô tự ( chẳng có từ ), do vậy gọi là vô tự chơn kinh. Chú ( tổng tất cả mọi
pháp , trì vô lượng nghĩa ). Ý nghĩa của khẩu quyết là chỉ rõ rằng tu đạo phải
rời tất cả mọi hình tượng ngôn ngữ, phải tự chứng tự ngộ, khiến cho 3 cực Lí
Khí Tượng nhất quán, ở trong cái thể dụng như một, không được chấp trước tướng,
phải hành ngoại công trở về lại sự tự nhiên của nó, noi dựa theo dung mạo từ bi
của Di Lặc Tổ Sư tu đạo bàn đạo, tâm địa quang minh hào hiệp cao thượng, miệng
cười thường mở, tâm cảnh viên dung vô ngại, thanh tịnh viên minh, giải thoát tự
tại, cũng chính là chúng ta chỉ cần vẫn còn một hơi thở thì chúng ta phải làm sự
nghiệp của Di Lặc, nói lời nói của Di Lặc, đi vào tâm từ bi của Di Lặc, hành sự
hành trì của Di Lặc. Ngay lúc ấy ở trong này bèn đã đem ngũ tự chơn kinh hóa
thành vô tự chơn kinh, thể hiện ở trong sinh mệnh của chúng ta.
Thiên
đạo từ “ một ” bắt đầu, hợp với thiên tâm và đồng với thánh đức, bạn mới có thể
lãnh thụ cái chỉ điểm dĩ tâm ấn tấm này. Sau khi dĩ tâm ấn tâm, làm thế nào
thành tựu cái phần tâm tự giác này ? Vậy thì tất nhiên cần phải mở ra tịnh độ
ngay lúc ấy của sinh mệnh chúng ta. Cuối cùng người cầu đạo cảm tạ ân khai đạo
của Lão Mẫu tam khấu, và Chư Thiên Thần Thánh, Di Lặc Tổ Sư …nhất khấu, thậm
chí bao gồm Dẫn Bảo Sư, Tiền Nhân Đại Chúng. Đấy chính là đem sinh mệnh dẫn vào
sự cảm ân, đem sinh mệnh dẫn vào niệm niệm tái tạo của ứng dụng sinh hoạt hằng
ngày, khiến chúng ta niệm niệm nơi phật, niệm niệm nơi Thánh, niệm niệm nơi
chúng sanh. Đấy chính là từ sau khi cầu đạo Minh sư chỉ điểm truyền tam bảo,
đem tam bảo của chúng ta dẫn vào trong ứng dụng luân thường cuộc sống hằng
ngày, cũng chính là hóa cái sát na ( khoảnh khắc thời gian chớp nhoáng ) thành
vĩnh hằng. Sau đó thì lễ cầu đạo xong, tất cả mọi người đều chúc mừng chúng ta,
chúc mừng cái gì ? chúc mừng “ hạnh thọ chơn truyền ” ( may mắn nhận được chơn
truyền ).
0 comments :
Post a Comment